Yêu Phải Cô Người Hầu

Quyển 2 - Chương 180: Ngoại Truyện 4: Mai Bạch Lang - Phần 2




Trương Khải Sơn làm việc rất nhanh, đây là chuyện mà trong quân ai ai cũng biết.

Đêm canh ba mới ngủ, ngày hôm sau trời còn chưa sáng, viên sĩ quan phụ tá đã ở dưới sân điểm danh các thân binh đi theo, tất cả đều áo quần gọn ghẽ, pạc hoọc giấu dưới yên ngựa, lấy túi nước đè lên trên, sau hông giắt lưỡi lê.

Trương Khải Sơn kiểm tra lại khẩu Colt của mình, mắt thấy mặt trời vừa lên, mới bảo mã phu dắt ngựa ra ngoại ô trước, còn bản thân với mấy thân binh thì lên xe hơi, chia nhau mà đi. Buổi sáng tám giờ, nhóm người bọn họ mới tập trung ở sườn đồi gần đường ray xe lửa ngoài ngoại ô, cả đội tổng cộng mười bốn người. Một nhóm sáu người ngụy trang thành một đội buôn đi trước 20 dặm, nhóm thứ hai bốn người ngụy trang thành lái buôn trà tản ra điều tra khắp khu vực xung quanh, còn Trương Khải Sơn, viên sĩ quan phụ tá và hai phu khuân vác đi sau cùng, dọc đường vừa thu thập tin tức, vừa sắp xếp phương hướng.

Hai nhóm người đã đi trước, chờ suốt nửa ngày trời mới thấy Tề Thiết Chủy khoan thai bước đến. Trương Khải Sơn và viên sĩ quan phụ tá ăn vận như tiểu thương bán trầu cau, còn đem theo cả một hòm thuốc lá, chỉ thấy Tề Thiết Chủy mặc áo đạo sĩ, tay dắt lừa đi tới, trông đích thị là một lão thầy bói.

Cũng may từ mấy đời nay Trường Sa vẫn luôn là đầu mối giao thông quan trọng, đâu đâu cũng toàn những kỳ nhân dị sĩ khắp trời Nam đất Bắc, nên dáng vẻ này cũng không quá hiếm lạ gì.

Nhưng vấn đề là con lừa đi quá chậm, thường cứ đi được một đoạn lại bị bỏ xa đến hai ba dặm, bọn Trương Khải Sơn phải chờ thêm nửa canh giờ nữa mới thấy chạy tới nơi, Trương Khải Sơn nhẫn nhịn suốt nửa đường, cuối cùng thở dài bảo: “Lão thầy bói, tôi bảo ông cải trang thôi, ông cưỡi một con lừa tới làm gì?”

“Phật gia, thầy bói không cưỡi lừa, lại đi cưỡi một con ngựa thật là cao to, ấy chẳng phải lạy ông tôi ở bụi này ư? Ngài tuyệt đối không được coi thường bộ đồ này của tôi nhé, càng đi vào trong núi cái mánh nhỏ này của tôi càng hữu dụng đấy.”

Từ khi vào núi đến giờ, viên sĩ quan phụ tá vẫn hết sức cảnh giác, hễ cứ có chim bay lên là anh ta cũng phải dừng ngựa lại, ngẩng lên trời nhìn ngắm cả nửa ngày, nghe Tề Thiết Chủy nói thế, hiếm một lần mới quay đầu lại nói: “Đạo sĩ vùng núi này, sớm đã nghèo kiết xác đến mức tuyệt chủng rồi, cái gọi là đạo sĩ phần nhiều là sơn phỉ lưu lạc, trốn trong đạo quán bỏ hoang nơi núi sâu mà giả thần giả quỷ, bắt cóc trẻ con dưới xóm lên núi nuôi thành trộm thành cướp. Có bộ dạng này của ông ấy, gặp người chỉ sợ là bị người ta đánh chết mất thôi.”

“Không phải không phải, bọn chúng là giặc cướp, chỉ biết cậy mạnh. Tôi đây trông thế mà là thân truyền của Hoàng Đình tổ sư, hậu nhân Tề gia đấy.” Tề Thiết Chủy nói đoạn vỗ vỗ vào cái túi bách bảo của mình: “Một trăm lẻ tám phép thần thông đều ở cả đây, đi đến đâu cũng là thần tiên sống. Chẳng thế lúc Phật gia nhét miếng Giáp Cốt vào mồm tôi, tôi đã trúng độc bỏ mình từ lâu rồi.”

“Miếng Giáp Cốt ấy đã chưng qua với máu của tôi rồi, bằng không sao dám lấy tay không mà cầm, không sợ nhiễm độc sao.” Viên sĩ quan nói với vẻ sâu xa.

Nghe nói máu người họ Trương không giống máu người thường, có thể trừ độc trị bệnh, lúc uống trà nói chuyện phiếm, Tề Thiết Chủy thường hỏi Trương Khải Sơn việc này có thể cho xem tận mắt hay chăng, mà lần nào cũng bị cười nhạo, hôm nay viên sĩ quan phụ tá mới nói thẳng ra như thế, làm hắn không khỏi bán tin bán nghi. Vừa định mở mồm truy hỏi, lại thấy vết thương quấn băng vải trên tay viên sĩ quan phụ tá, vết thương nơi lấy máu nào đã lành miệng. Lại nghĩ bụng, dùng máu mà chưng, không phải sẽ thành đậu phụ huyết à?

Trương Khải Sơn bên cạnh bèn ghìm cương ngựa, liếc nhìn Tề Thiết Chủy, như thể muốn cười chê, Tề Thiết Chủy bèn nuốt câu hỏi đang nghẹn ở cổ họng xuống.

Một đường thẳng hướng Tương Tây mà đi, cũng không phải lúc nào cũng men theo đường ray được. Sau khi vào núi, chỉ có thể đi trên triền núi, nhìn đường sắt phía xa xa mà đi theo thôi. Mấy lấy còn gặp phải đất lở, quần áo Tề Thiết Chủy liền bẩn thỉu không ra làm sao nữa, thế mà trông lại rất giống dân quê mùa hoạt động ở vùng này.

Ba ngày sau, bọn họ đến khu vực khai thác mỏ đầu tiên đã vạch ra trên bản đồ.

Tương Tây sản xuất nhiều thủy ngân, quặng mỏ ở đây có đến mười một mười hai quả núi liền, xen lẫn đủ các loại mỏ khoáng khác nhau. Thợ mỏ đều ăn ở luôn trong núi sâu, hai tháng mới xuống núi một lần, có mã phu riêng để mỗi ngày còn vận chuyển khoáng thạch. Người ở đây phần lớn là người Mèo, rồi người Động, vân vân, rải rác trong núi sâu, cơ bản đều là các khu tự cai quản, hoàn toàn là sinh sống hoang dã nơi biên cảnh Miêu Cương.

Đến khai thác mỏ quặng ngoài Cục địa chất khoáng sản ra, còn có những người Nhật, người Đức hợp tác với các lãnh đạo phía trên nữa, bây giờ người Nhật đều đã rút hết, thợ mỏ đa phần là người Hán với người dân tộc lẫn lộn tại địa phương, rất phức tạp.

Tuyến đường sắt đã cách hơn hai dặm rồi, đi đường tàu xe mệt nhọc, tạm thời không có ai báo cáo. Có mấy người vào một ngôi làng của người Động trên sườn núi, lại tìm thấy trạm dịch cổ trên tuyến đường trà mã cổ đạo ngày xưa, bây giờ trạm dịch do dân địa phương nắm giữ, phần nhiều là do các lái buôn và lữ khách ở chung, rồi cùng tiếp tế hàng hóa cho, thường xuyên tụ tập mấy trăm người một lúc, đủ các loại dân tộc, đủ các loại nhân vật.

Ngôi làng của người Động được xây trên sườn núi, trạm dịch lại được dựng lửng lơ trên đường núi sát vực đá, nguyên hàng hiên lợp cỏ rất dài chạy dọc suốt cả nửa đoạn đường, chênh vênh giữa lưng chừng núi. Bên trong là những tấm phản ghép liền nhau thật dài như một con rồng, mấy trăm người cùng ngủ trên ấy. Bên dưới gối đầu là vực sâu vạn trượng, thấy mà khiếp hãi.

Sắc mặt Tề Thiết Chủy vàng ệch như đất, lắc đầu nói: “Phật gia, thế này nhỡ nửa đêm đi tiểu, một cước đạp không, thế là thịt nát xương tan.”

Trương Khải Sơn phủi phủi bụi đất trên người, đến trước lan can của trạm dịch, nhìn ra thung lũng bao la bên ngoài.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.