Xuyên Không Hoàng Đế! Hãy Mau Quy Phục Ta!

Chương 14




Đoàn người về đến Nà Thượng khi trời đã tang tảng sáng. Đám thanh niên mệt nhoài sau trận chiến sống còn với con mãnh hổ, chàng thanh niên bị ma trành lôi thẳng vào cái dớp vẫn không thôi kinh hãi, tới độ khi trở về anh vẫn còn mê man, thi thoảng lại la lên thất thanh, mắt trợn ngược, sùi cả bọt mép. Lang Trượng đã kê cho anh ta một phương thuốc an thần từ lá rừng để bình tâm trở lại.

Khi ấy, những người tò mò đã tụ tập rất đông tại nhà trưởng thôn từ tối hôm qua, chờ đợi để xem cho kỳ được chiến tích giết con mãnh hổ của thầy Lang Trượng. Nhưng hẳn nhiên, sẽ có người thất vọng vì không thể tận mắt nhìn thấy xác của con mãnh hổ đã bị thiêu cùng với những nạn nhân của nó. Trưởng thôn mừng rỡ ra mặt khi không còn phải chứng kiến những tai nạn thương tâm tại vùng mình quản lý nữa. Vả lại, không ai trong đoàn bị thương tích nặng nề.

Lang Trượng dặn Thạnh trao tận tay hũ đựng tro xương cho người nhà của những nạn nhân vừa mới mất, đồng thời ông sẽ lập đàn ngay tại đây để chuẩn bị một lễ cầu siêu.

– Ông chuẩn bị giết lợn, giết gà, đồ xôi để tôi cầu siêu cho những nạn nhân! – Lang Trượng dặn dò trưởng thôn.

– Cảm ơn thầy đã ra tay trợ giúp. – Trưởng thôn bồi hồi nói. – Nếu như không có thầy thì e là con mãnh hổ ấy không tiêu diệt được.

– Mệnh của tôi phải thế! Nên ông chẳng phải khách sáo làm gì. – Lang Trượng nói, rồi ra hiệu cho ba học trò đi lên nhà sàn theo mình.

Phía trên nhà, dưới sân, mọi người bắt đầu lục tục để chuẩn bị làm lễ cầu siêu cho những nạn nhân chết oan.

Khi trời sáng rõ, mọi thứ đã được chuẩn bị xong. Giữa khoảng sân gạch lớn, bốn cái chiếu cói được sắp ra, trên mỗi chiếu bày một mâm cỗ, gồm xôi, thủ lợn, cá suối và rau rừng đồ. Mỗi bàn còn được sắp thêm một bát nước trắng đặt một cái tăm dài, vài chén rượu; và những đồ vật thân tín, gắn liền với mỗi nạn nhân cũng đều được bày ra.

Lễ cầu siêu là rất cần thiết đối với mỗi nạn nhân của mãnh hổ, dù cho nó đã bị tiêu diệt hoàn toàn, nhưng những linh hồn kia vẫn vất vưởng đâu đó trong nhân gian. Dù không thể nào làm hại người nữa, nhưng nhỡ bơ vơ giữa trần thế thì cũng thật tội nghiệp.

Thạnh giúp thầy mặc áo thụng len dài, vạt áo trải rộng đằng sau lưng với hoa văn chim hạc thường thấy trên trống đồng. Ngọn lửa được cách điệu ở hai phần trên dưới, đối diện song song. Đầu đội mũ mão, một tay cầm kiếm, một tay cầm chuông, Lang Trượng bắt đầu làm lễ cầu siêu. Cả không gian lẫn trong màn sương sớm mờ ảo, cầu cho những oan hồn trở về chốn âm ty, sang thế giới bên kia để không còn phải bơ vơ, lạc lõng giữa nhân gian nữa.

Lang Trượng đang thực hiện những bước cuối cùng của nghi lễ cầu siêu thì bất giác từ đằng đông, một cơn gió lạ đột ngột thổi đến, dập tắt ngọn lửa đang được thắp trên cái đỉnh, khiến mọi người ngỡ ngàng hết sức. Bỗng nhiên, có người làm ở nhà dưới tất tả chạy lên, báo có hiện tượng lạ xảy ra bên khu chuồng trại. Lang Trượng dừng tay, chạy theo người làm.

Tới khu chuồng trại, Lang Trượng nhìn thấy, có con lợn nái chực rống lên từng hồi thảm thiết. Con trâu mộng chẳng biết vì sao mà lăn đùng ra, miệng sùi bọt mép trắng xóa, mắt thì trợn ngược, khiếp hãi. Nếu là người thì chuyện xảy ra như vậy là bình thường, nhưng với vật nuôi thì e là có chuyện không hay sắp xảy ra. Nhưng chuyện chưa dừng lại ở đó, phía nhà dưới bỗng có tiếng trẻ con khóc ré lên, mãi không dứt. Lang Trượng ngẫm nghĩ, dù có chuyện gì xảy ra thì cũng phải cử lễ xong rồi mới tính tiếp được. Ngược lại khu tế đàn, Lang Trượng cầm kiếm gỗ trỏ thẳng lên nền trời đen kịt. Nhưng khi mũi kiếm vừa dựng lên thì từ trên trời, một ánh chớp lóe lên và ngay sau đó, một tràng sấm rền vang khiến mọi người đang quỳ mọp dưới đài hết sức kinh hãi. Ai ai cũng ngước nhìn lên bầu trời vùng Nà Thượng như muốn hỏi tại sao. Mùa này, thi thoảng vẫn có những cơn dông ập đến vào buổi chiều muộn. Nhưng giờ đang là sáng sớm, sao đã có dông! Lang Trượng trấn an mọi người rằng đó chỉ là hiện tượng thời tiết bình thường, rồi hành lễ cho xong, dù bản thân ông biết rõ có điều gì đó không ổn. Bởi lẽ những luồng âm khí từ tứ phía bỗng nhiên tụ lại, khiến cho mọi thứ trở nên hết sức nặng nề. Phía xa xa, ông thậm chí còn nghe thấy tiếng tù và, kèn, trống và chiêng – những thứ dùng trong lễ mai táng người chết.

Lễ xong xuôi, Thạnh đưa Lang Trượng lên trên nhà nghỉ. Còn anh em Thứ, Thất giúp những gia đình nạn nhân đem tro cốt đi chôn, nghi lễ sau cầu siêu vẫn được tiến hành như một đám tang bình thường để tiễn người chết về nơi chín suối.

Lang Trượng uống chén trà hoa cúc mà trưởng thôn mới ủ, vừa uống vừa chau mày suy nghĩ về hiện tượng lạ vừa rồi. Thấy thế, bản tính tò mò trong Thạnh lại trỗi dậy như mọi khi, nó quyết hỏi cho kỳ được.

– Ban nãy trời nổi cơn dông gió, mây đen phủ kín trong giây lát, rồi bỗng chốc tan ngay – Thạnh ngập ngừng nửa như muốn nói, nửa lại không – con e là có chuyện không hay phải không thầy. Nếu con tò mò quá thì mong thầy bỏ quá cho!

Thạnh lại ra vẻ thẹn thùng, nhưng Lang Trượng nhìn về phía cậu học trò nhỏ của mình, vẻ hài lòng – ít ai tinh ý được như Thạnh.

– Đúng thế! – Ông trầm ngâm đáp. – Ta chỉ nói thế để trấn an mọi người thôi. Vả lại nghi lễ cũng đã chuẩn bị xong. Không muốn họ phải phiền não nhiều thứ nữa. Ai cũng mệt rồi!

Nghe vậy, Thạnh như càng cảm thấy tò mò hơn lúc trước, nên nó được nước lấn tới, phải hỏi cho bằng rõ mọi chuyện.

– Thế thầy đã thấy những gì ạ?

Lang Trượng lắc đầu, điều này có lẽ làm Thạnh ít nhiều cảm thấy hơi phật lòng. Mắt nó cụp xuống, vẻ không vui lắm!

– Không phải ta không thấy gì. Chỉ là mọi thứ chưa rõ nên ta sinh nghi. Cho nên, lúc hai anh em Thứ, Thất mang đồ lễ tới cho các gia chủ, ta đã dặn hai đứa hỏi thăm dọc đường xem có chuyện gì.

Ra là vậy. Lang Trượng luôn là người cẩn trọng trong mọi chuyện, khi không chắc chắn chuyện gì thì ông sẽ không nói ra.

– Có phải lại có chuyện không hay sắp xảy ra không ạ? – Thạnh lại hỏi.

Lang Trượng nhấp tiếp một mụm trà trong cái bát dạng loe có hoa văn xanh mờ rồi gật gù, nói:

– Ta cảm nhận được rất nhiều luồng âm khí từ tứ phía tụ lại, nhưng chủ yếu từ hướng đông mà thôi.

– Như thế thì có ý nghĩa gì ạ?

– Có rất nhiều giả thiết. Thứ nhất, ai đó đã mang theo những bảo vật có khả năng dẫn dụ linh hồn. Còn thứ hai…?

Lang Trượng ngập ngừng, vẻ như không muốn nói, có lẽ không được chắc chắn.

– Cứ đợi anh em Thứ, Thất về rồi xem có chuyện gì?

Lang Trượng sau đó không nói thêm gì nữa, Thạnh cũng không dám hỏi chuyện thầy, bèn lui xuống dưới nhà ăn cỗ cùng mọi người. Lang Trượng chợp mắt một lúc, trưa sẽ về Nà Hạ, hy vọng hai anh em Thứ, Thất thu được chứng cứ quý giá, giúp ông giải đáp được những hiện tượng kỳ bí vừa rồi.

***

Sau khi đưa đồ lễ tới gia đình các nạn nhân, hai anh em Thứ, Thất theo lời thầy xuôi ngay về hướng đông, nghe ngóng mọi chuyện.

– Mày có thấy kỳ lạ không, khi thầy dặn chúng ta đi gấp thế? – Thứ sốt ruột lên tiếng hỏi Thất, vì từ đêm qua tới giờ chưa được một phút nghỉ ngơi.

Thất lắc đầu, đáp lời anh trai.

– Em cũng không rõ nữa, nhưng chắc có việc quan trọng nên thầy mới dặn mình đi gấp vậy đấy! Anh không để ý tới cơn dông bất thường trong lễ cầu siêu sao.

– Hẳn là có chuyện nghiêm trọng lắm đây. – Thứ nói nhỏ như đang độc thoại với chính mình. – Không phải lần đầu chúng ta thấy những hiện tượng kỳ lạ, nhưng lần này anh thấy có vẻ khác lắm.

Thất ngạc nhiên nhìn anh như muốn hỏi chuyện gì.

– Chẳng qua là chút bất an trong lòng thôi! Bình thường anh cũng không thấy thế!

Hai anh em đi xuôi về hướng đông, băng qua đường rừng, hai bên núi chập chùng sương chưa tan. Có lẽ, hôm nay lại là một ngày không có nắng.

Băng qua đoạn núi cao, hai anh em tới một cánh đồng cỏ lớn đã bỏ hoang. Trước kia, người Thái có canh tác, trồng cấy ở đây, nhưng qua vài vụ thì không trồng nữa.

Hai anh em Thứ, Thất bèn dừng chân bên một cái miếu đã bỏ hoang, bên cạnh là một cây đa lớn. Cái miếu này được dựng lên từ thời người Pháp còn cai trị nơi đây, những người ấy đã lợi dụng chế độ Lang Đạo xưa của người Mường để tiến hành cai trị. Những câu chuyện rùng rợn cũng đã xuất phát từ đây, nghe nói cái miếu này được dựng lên để thờ phụng một người con gái đẹp chết oan mãi không siêu thoát.

Hai anh em ngồi xuống, Thất lấy từ túi ra một nắm lớn xôi nếp nương trộn với muối vừng, ăn kèm với loại thịt nướng trực tiếp trên than thơm phức đặc trưng của người Mường. Thất bẻ đôi nắm cơm, một chia cho anh, một để phần mình.

Ngay tại đây, dưới chỗ hai anh em Thứ, Thất đang ngồi, có một người phụ nữ đã từng treo cổ tự vẫn. Thi thoảng vào những đêm trăng sáng khi đi qua đây, người ta vẫn nhìn thấy bóng người mặc áo trắng, lơ lửng treo mình trên một sợi dây. Cũng có khi người ta nghe thấy tiếng khóc than ai oán về một kiếp hồng nhan nhưng bạc mệnh.

Thất nghĩ tới đó thì bất thình lình rùng mình quay lại miếu như thể nhìn thấy cái gì đó. Thấy thế, Thứ bèn hỏi em.

– Có chuyện gì mà mầy cứ nhìn chằm chằm trông lạ thế?

– Cái miếu này được dựng lên từ bao giờ vậy anh? – Thất tò mò hỏi.

Thứ lắc đầu bảo:

– Tao không nhớ rõ lắm! Nhưng có lần, nghe thầy nói, nó được dựng lên ngay sau khi bà cô Thị treo cổ tự vẫn ở cái cây đa này. Bà cô Thị ngày xưa nổi tiếng xinh đẹp nhưng bạc mệnh.

– Vậy thì cũng từ lâu lắm rồi anh nhỉ! – Thất nói, giọng trầm.

– Đúng thế! Sau người ta bảo cô ấy ám lâu quá, vì chết oan mà, thế nên mới dựng cái này để thờ. Nhưng vài năm nay người đồng này bỏ đi hết thì không còn ai chăm sóc nữa. Cái miếu từ đấy cũng bị bỏ hoang luôn.

– Sao lại vậy hả anh? – Thất thắc mắc.

– Nghe đâu ở ngay cánh đồng trước mặt chúng ta, nước tư dưng sủi bọt, đỏ ngầu, cứ gieo hạt trồng lúa, trồng tới đâu cây chết héo đến đấy, thế nên chẳng canh tác được gì. Cũng vì thế mà họ bỏ đi hết đấy!

– Ra là thế! Chẳng trách người Thái tới Nà Hạ chúng ta nhiều, rồi ở lại luôn.

– Có lẽ cũng vì có thầy nữa nên quỷ ma ít khi nhũng nhiễu vùng Nà Hạ chúng ta. Chứ ở Nà Thượng giờ thưa thớt người lắm, có khu bỏ hoang chẳng thấy bóng dáng người!

Hai anh em ăn xong thì mau lên đường ngay. Nhưng vừa định bước đi thì từ phía xa, một cơn gió đột ngột thổi tới khiến bụi đường mù mịt. Bụi đường đỏ bay tứ tung khiến cho cả không gian nhuốm một màu đỏ rịt. Thất nheo mắt, che tay ngăn bụi. Bụi vẫn chưa tan hẳn thì từ xa, một đoàn người đi tới. Những người đó khoác lên mình những trang phục kỳ lạ, như trang phục thời xưa. Người trên kiệu mặc áo thụng thêu hoa, quần chàm vải lanh, phía trên đầu trùm một cái khăn đỏ che kín mặt. Tùy tùng phía dưới thì ăn mặc đơn giản hơn, người khiêng kiệu, người thổi kèn, còn có người cầm theo giáo mác. Thất để ý thấy đằng sau, họ còn khiêng theo một chiếc bao rất lớn, được phủ lên bằng một tấm vải đen đang không ngừng giãy giụa, tuyệt vọng. Một tên tùy tùng dừng lại, quay ngang, lúc này đây, Thất mới nhìn thấy gương mặt của hắn – một gương mặt trơ xương với con mắt không tròng. Cái miệng thì khô khốc nứt nẻ, da mặt đôi chỗ rách toác như vết chân chim. Hắn trừng mắt nhìn về phía Thất, nhưng vẻ như không thể nhìn thấy.

Thứ thấy thế bèn kéo tay em trốn nhanh vào một tảng đá sau miếu. Đoàn người sau đó vẫn tiếp tục đi, phía trước đội kèn trống thổi ra những âm thanh ai oán. Những gương mặt phờ phạc, thậm chí không nhìn rõ. Rồi họ cứ thế lướt đi nhẹ như không.

Thất hoảng hốt, bụm miệng, không dám nói. E rằng, đây chính là những điều thầy bán tín bán nghi. Đi tới ngọn núi trước mặt thì đoàn người mất hút như chưa hề tồn tại.

Thứ vừa mới định bụng đứng dậy, phủi bụi bám trên quần áo thì bất ngờ la toáng lên. Anh lắp bắp nói không thành lời, mặt kinh hãi, tái nhợt. Bởi lẽ, ở phía gốc đa kia, một cái xác trong trang phục màu trắng đang treo lủng lẳng, tóc rũ xuống, che hết gương mặt. Gió khẽ thổi qua khiến phần thân thể đung đưa càng làm cho mọi thứ trở nên kinh hãi. Bất thình lình, Thứ nghe phựt một tiếng, cả thân thể màu trắng rơi xuống. Nhưng lạ thay, phần đầu của cái xác bằng một cách nào đó vẫn neo giữ trên dây thòng lọc. Thứ mặt cắt không còn một giọt máu, lắp bắp.

– Sao, sao vậy anh? – Thất hoảng hốt hỏi.

– Ở đằng kia… tao… tao vừa thấy có người… treo cổ.

Thất nhìn theo hướng tay trỏ của anh, nhưng tuyệt nhiên không thấy gì cả! Mọi thứ vẫn im lặng như tờ. Một cơn gió ập tới lần nữa, khiến bụi đỏ bay mù mịt nhuốm cả không gian.

***

Xe đò qua được con đèo thì đường trở nên bằng phẳng và bớt gập ghềnh hơn. Trong đầu Lan Phương vẫn quẩn quanh những hình ảnh về hồn ma cô gái bên mép vực, không phải lần đầu tiên cô nhìn thấy những oan hồn, nhưng chẳng hiểu sao trong lòng lại lấn cấn, khó chịu đến thế! Thấy thế, ngay phía bên cạnh, Gia Huy lại lên tiếng.

– Cô sao thế? Lại suy nghĩ về chuyện ban nãy sao?

Lan Phương lắc đầu trả lời.

– Tôi không sao! Dù gì thì cũng không phải lần đầu tiên nhìn thấy những oan hồn, nhưng chẳng hiểu sao tôi lại cảm thấy khó chịu thế.

– Tôi nghĩ chắc do không khí vùng này không quen thôi! Sắp tới nơi rồi, cô nên nghỉ chút đi.

Gia Huy dịu dàng nói, bất giác ánh mắt Lan Phượng chạm vào ánh mắt anh khiến cô thấy bối rối, rồi ngay lập tức quay đi.

Xe dừng lại. Người lơ xe chỉ về phía con đường mờ xám, lẫn trong sương chiều rồi nói rằng, theo đường đó sẽ lên tới Nà Hạ – nơi thầy Lang Trượng đang sinh sống.

Gia Huy và Lan Phương xuống xe. Chiếc xe đò tiếp tục cuộc hành trình, chẳng mấy chốc mất hút sau làn sương mờ ảo cuối con đường.

– E là giờ không thể đón xe từ đây lên Nà Hạ được rồi! – Lan Phương buồn rầu nói.

Gia Huy cố trấn an cô.

– Tôi nghe lơ xe bảo, thỉnh thoảng sẽ có xe lam chở đồ lên đó bán. Thường thì họ sẽ cho quá giang, chỉ cần trả thêm một ít tiền thôi!

Nhưng Gia Huy và Lan Phương chờ mãi, vẫn không có chiếc xe lam nào xuất hiện như cánh lái xe bảo. Thế nên, hai người quyết định đi thẳng theo con đường nhỏ, tới đâu hay tới đó. Mà nếu không đón được xe, thì ít ra cũng gặp ngôi nhà nào đó, để tá túc qua đêm nay.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.