Vượng Phu Kế Phi

Chương 6: Claire, bailey, bọn này nhớ hai người quá




“Vân Phàm huynh về rồi đó sao?” Giọng nói của Tô Thức bỗng nhiên từ trong phòng vọng ra ngoài hỏi.

Đỗ Văn Hạo nghe thấy tiếng của Tô Thức liền nhấc chân bước vào bên trong phòng của Tô Thức, vừa vào đến bên trong Đỗ Văn Hạo đã trông thấy Tô Thức đang ngồi trên một chiếc ghế nhỏ đặt giữa phòng, trong phòng lúc này chẳng có một ai khác cả, hắn thấy vậy bèn tiến đến chắp tay nói: “Tử Chiêm huynh! Không biết huynh cảm thấy trong người như thế nào?”

“Bây giờ đã không còn gì đáng ngại nữa rồi!” Tô Thức nói xong bèn mỉm cười đưa tay lên ra ý cho Đỗ Văn Hạo ngồi xuống, rồi tự mình đứng dậy ra rót cho hắn một tách trà.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đưa hai tay ra đỡ lấy tách trà trên tay của Tô Thức xong liền uống một hơi cạn sạch, sau đó hắn liền chèm chẹp cái miệng của mình một cái rồi mới đặt tách trà xuống, Tô Thức thẩy vậy chỉ mỉm cười liền rót thêm cho hắn một tách nữa nói: “Chuyện mượn lương thực ra sao rồi?”

Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ có lẽ là Lâm Thanh Đại khi về đây đã đem chuyện hắn đi mượn lương thực kể cho Tô Thức nghe rồi, thấy vậy hắn bèn đem câu chuyện hắn vừa mới ở chỗ Hàn Tu về kể cho Tô Thức nghe một lượt.

Tô Thức nghe xong thì gật đầu tán đồng nói: “Cách làm của Vân Phàm huynh rất hợp lý! Không ngờ huynh lại có những ý nghĩ chu đáo cho dân chúng như vậy!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đáp: “Tử Chiêm huynh e rằng nhất thời không thể chuyển đến đó ở Châu Nha được rồi, bởi Châu Nha đã bị tại hạ…”

Tô Thức nghe đến đây bèn cắt lời của Đỗ Văn Hạo nói: “Ta đã biết rồi, Vân Phàm huynh làm rất đúng, việc quan trọng trước mắt nhất bây giờ phải sắp xếp nơi ăn chốn ở của dân chúng ổn định cho xong đâu đất đã rồi mới làm gì thì làm được!”

“Tử Chiêm huynh biết không? Quan lại của Châu Nha ngoại trừ một số đã chết trận, thì những người khác cũng đã tháo chạy khỏi đây, vẫn chưa quay lại! Có lẽ phải một thời gian nữa cái Châu Nha của huynh mới có thể vận hành như xưa được!”

“Đúng vậy! Trong thời gian này nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta là phải ổn định tâm lý cho dân chúng, phục hồi trật tự nơi đây, kể cả có ngồi lên chức quan Chi Châu mà không lo liệu chuyện cấp thiết trước mắt thì e rằng cũng chẳng ngồi lâu được!”

Hai người cứ vậy nói chuyện thêm được một lúc thì vợ của Tô Thức là Vương Nhuận Chi hớt hơ hớt hải chạy vào chỉ ra ngoài cửa hầm hập tức giận nói: “Đỗ đại nhân! Đại nhân đang làm cái gì vậy! Tôi nghe nói dạo gần đây Nhã Châu buổi đêm hay có bão, người khác thì không sao, nhưng sức khỏe của mấy vị Đỗ phu nhân cũng không được khỏe cho lắm, đại nhân không thể để bọn họ ngủ ngoài đường như vậy được, như vậy sẽ rất dễ sinh bệnh!”

Lúc này ở sau lưng của Vương Nhuận Chi, Liên Nhi vội vã chạy theo vào, gương mặt bối rối, sợ hãi lí nhí nói: “Thưa thiếu gia! Bọn thiếp không có vấn đề gì cả đâu, là Tô phu nhân muốn…”

Tô Thức nhất thời không hiểu mô tê đầu đuôi sự tình ra sao cả, ông thấy mọi người có những biểu hiện khác thường như vậy bèn lên tiếng hỏi: “Rốt cuộc là có chuyện gì xẩy ra vậy?”

Đỗ Văn Hạo vội vàng lên tiếng giải thích nói: “Tô phu nhân không cần phải lo lắng như vậy! Thân thể của mấy vị phu nhân của tại hạ còn tốt lắm, hơn nữa bọn họ vẫn còn rất trẻ, trời cũng nóng như thế này, không đến nỗi bị nhiễm bệnh đâu! Nằm ngoài trời có khi lại cảm thấy thoáng mát, phu nhân xem tiết trời nóng nực thế này mà nằm ngoài hóng gió thì không phải là mát mẻ hơn hay sao?”

Vương Nhuận Chi nghe xong vẻ mặt vẫn tỏ vẻ không vui, chạy thẳng đến trước mặt Tô Thức trách móc: “Lão gia! Chuyện này không thể như thế được, chúng ta đã bàn bạc với nhau rằng sẽ nhường lại hai căn phòng cho Đỗ đại nhân! Ba đứa nhỏ thì dù sao đều là con trai, ở chung với nhau cũng được, không biết thiếp làm như vậy có điều gì sai, mà Đỗ đại nhân không vẫn không chịu đồng ý?”

Tô Thức lúc này mới nghe hiểu chuyện gì đang xẩy ra, ông vô cùng cảm động, liền liên tưởng đến lời nói của Hoàng Thượng dành cho Đỗ Văn Hạo, Tống Thần Tông đánh giá hắn là một người nói được làm được, hành sự vô cùng điềm tĩnh, chuyện gì suy nghĩ cũng vô cùng thấu đáo, đầu óc thông minh, nhay bén, nếu như cho hắn một khoảng không gian để hắn mặc sức tung hoành thì hắn chắc chắn sẽ làm lên chuyện lớn, nhất định sẽ không là cho mọi người thất vọng, nghĩ đến đây Tô Thức liền quay sang Đỗ Văn Hạo nói: “Vân Phàm huynh cũng mệt mỏi cả ngày hôm nay rồi, không thể để huynh căng bạt ngủ ở ngoài đường như vậy, huynh nghe lời ta dọn vào trong này ở, mọi người ở chung với nhau lại không phải vui vẻ náo nhiệt hơn sao?”

Đỗ Văn Hạo ngẫm nghĩ một lúc rồi định lên tiếng nói thì Tô Thức đưa tay gạt đi, cắt ngang lời của hắn: “Thôi được rồi! Chuyện này coi như ta nói là xong, nói cho cùng thì đây cũng là tình cảnh đặc biệt, do vậy chúng ta phải lựa thế mà sống, mấy đứa trẻ nhà ta cũng không nên nuông chiều chúng quá, phải cho chúng nếm mùi đau khổ thì chúng mới hiểu thế nào là sung sướng được!”

Vương Nhuận Chi nghe vậy bèn gật đầu nói: “Lão gia nói phải lắm! Đỗ đại nhân đừng từ chối mãi như vậy nữa, đây chẳng qua là một nơi tránh mưa tránh gió thôi mà, tôi tin đây chẳng qua chỉ là tình huống tạm thời thôi, chỉ cần chúng ta còn sống thì lo gì sau này không có chỗ ở, đạo lý này chắc Đỗ đại nhân cũng hiểu! Tôi tin rằng Đỗ đại nhân cùng với lão gia sẽ nhanh chóng khôi phục lại nơi này trong thời gian nhanh nhất có thể!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì vô cùng cảm kích vô cùng: “Tô phu nhân nói phải lắm! Tại hạ bất tài, nguyện ghi nhớ những lời dạy bảo của phu nhân!”

Cũng đúng lúc này thì bên ngoài cửa sổ vọng vào tiếng sấm rền vang, tiếp sau đó là những tia lửa điện xe rách bầu trời, loằng ngoằng nhằng nhịt nối đuôi nhau lóe lên những ánh sáng bạc xuyên qua những đám mây đánh thẳng vào gốc hòe phía bên ngoài sân. Tiếp sau đó bên ngoài sân vang lên một tiếng hét thất thanh, Đỗ Văn Hạo mặt mày thất sắc đứng thẳng người dậy phóng luôn ra bên ngoài, chỉ trông thấy Tuyết Phi Nhi đang ôm lấy Lâm Thanh Đại mặt mày tái mét vì sợ hãi. Lâm Thanh Đại lúc này cũng chỉ đứng đó hướng về Đỗ Văn Hạo mỉm cười với hắn một cái, rồi cúi xuống thấp giọng nói với Tuyết Phi Nhi điều gì đó, Tuyết Phi Nhi nghe xong bèn gật gật đầu, sau đó chạy luôn vào túp lều gần đấy.

Một lúc sau, mưa rơi như trút nước, từng giọt mưa nặng hạt rơi lộp bộp dưới sân, rồi bắn tóe lên như hình con cóc nhảy, không khí bây giờ trở nên vô cùng mát mẻ, gió thổi vù vù xua tan đi cái nóng gay gắt của ban ngày. Nhưng, Đỗ Văn Hạo không vì như vậy mà cảm thấy sảng khoái hơn chút nào, nét mặt của hắn vẫn đượm một nỗi lo âu vô bờ bến, Đỗ Văn Hạo liền quay sang Tô Thức nói: “Trận mưa này e rằng không nhỏ! Tại hạ phải ra ngoài kia xem dân chúng thế nào rồi, không biết là họ có cần giúp đỡ gì không?”

Tô Thức thấy vậy bèn đáp: “Ta cũng đi!”

“Tử Chiêm huynh đừng đi, bệnh tình của huynh cũng vừa mới khỏi, bị nhiễm thêm lạnh vào lại lần nữa e rằng có hại cho sức khỏe!”

“Không sao đâu! Sức khỏe của ta, ta biết! Lúc này mà ta cứ ru rú ở trong nhà thì làm sao xứng đáng với chức Chi Châu của ta được! Đi, chúng ta đi thôi!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn bật cười sảng khoái, sau đó hai người liền bước luôn ra bên ngoài, hai tên thị vệ theo hầu cũng vội vã chạy theo bật ô che chở cho hai người đi tuần.

Hai người trên đường đi tuần lúc này vô cùng bận rộn, một người là Chi Châu, người còn lại là Câu Quản tuy hai chức quan to nhỏ khác nhau, nhưng giờ họ lại chung một nhịp đập trái tim, đó là nhịp đập của lòng yêu nước thương dân. Trên đường đi hai người đem những người không có chỗ trú mưa đưa hết về Châu Nha lánh tạm, rồi bảo với Tiền Bất Thu đun nước gừng nóng để họ uống cho đỡ lạnh. Sau đó Đỗ Văn Hạo lại bàn bạc với Hàn Tu, Tô Thức lên kế hoạch xây dựng lại thành ấp nơi đây, xong đâu đấy Đỗ Văn Hạo mới chịu quay về nghỉ ngơi.

Ngày hôm sau, Đỗ Văn Hạo dậy từ rất sớm, bởi vì Tô Thức nhất quyết không cho hắn và gia đình dọn ra ngoài ngủ trong lều, nên hắn liền đưa bốn vị phu nhân của mình ở lại trong hai căn phòng mà Tô Thức đã nhường lại cho hắn. Còn Đỗ Văn Hạo và Lý Phố cùng ở trong một căn lều, bên cạnh lều của hắn là lều của Anh Tử với con hổ con Khả Nhi.

Sáng sớm trời quang mây tạnh, những con ve đáng ghét lại bắt đầu kêu lên vo vo, nghe mà lộn hết cả ruột, Đỗ Văn Hạo ghét nhất cái bọn ve này, sáng ra đã kêu ầm ĩ cả lên, làm cho người ta vô cùng khó chịu. Chính vì vậy mà khi mặt trời mới ló dạng, thì Đỗ Văn Hạo cũng đã tỉnh dậy ra ngoài vận động, Lý Phố thấy hắn ra ngoài cũng vội vã chui ra theo.

“Đại nhân! Sao ngài dậy sớm như vậy? Hôm qua đại nhân và mấy người khác đều nghiên cứu trùng tu lại nơi ăn chốn ở cho dân chúng đến khuya mới ngủ, mạt tướng nghĩ rằng đại nhân nên ngủ thêm một lúc nữa!”

Đỗ Văn Hạo bèn vừa đi vừa cài áo nói: “Thôi! Không cần ngủ thêm nữa đâu, hôm nay ta còn nhiều việc phải làm lắm, chúng ta mà ngủ nướng thì chuyện của dân chúng ai đứng ra giải quyết! Thời gian bây giờ là vàng bạc, đi thôi! Chúng ta ra chỗ Châu Nha xem tình hình mọi người ra sao!”

Lý Phố nghe xong bèn cúi người tuân lệnh, ông ta vốn là con nhà lính, chịu khổ cũng quen rồi, nhưng ông ta không ngờ rằng trông Đỗ Văn Hạo với dáng người nho nhã, mảnh khảnh thư sinh như vậy mà cũng biết chịu khổ như mình, thậm chí có lúc còn hơn mình thì vô cùng khâm phục. Lý Phố tin rằng Đỗ Văn Hạo là một vị quan yêu nước thương dân nhất mà ông từng gặp từ trước đến nay, hắn không chỉ quan tâm đến dân chúng từng li từng tý, mà còn đem hết sức mình ra tận tụy lo lắng cho sự an nguy của mọi người nữa, một con người vì dân vì nước như hắn, trên đời quả là hiếm có vô cùng.

Trật tự của Nhã Châu sau khi được khôi phục lại như cũ, thì những quan lại trước kia đã lục đục kéo về, trong số bọn họ cũng có một số người bị chết trong loạn lạc, Đỗ Văn Hạo cũng không gấp gáp trong việc bổ xung thêm quan viên nữa, vì nhiệm vụ trước mắt của hắn bây giờ là lương thực, phải có lương thực đầy đủ thì mới ổn định được lòng dân.

Trước mặt của Đỗ Văn Hạo giờ đây là những người dân khốn đốn sau chiến tranh, bọn họ không còn nhà để ở, không còn gạo để ăn, chiến tranh đã cướp đi tất những gì mà họ đã có, nhà cửa bị tàn phá, người thân bị chết trận, đồn điền bị hủy hoại, tiền của bị cướp bóc, họ đã mất tất cả. Người dân bây giờ chỉ biết trông chờ vào hắn, vào đồ cứu tế của triều đình mà thôi. Tình hình Châu Nha lúc này mọi thứ đều ngổn ngang, trẻ con khóc lóc đòi ăn, người lớn thì quặt quẹo nằm thu lu một góc. Trong số đó vẫn còn đó những người dân bị nhiễm Phong Hàn, bệnh dịch này vẫn đang hoành hành tác quái và dường như không có dấu hiệu nào kết thúc nào cả.

Tất cả những hình ảnh này in đậm trong tâm trí của Đỗ Văn Hạo, tàn dư để lại sau chiến tranh bao giờ cũng ảm đạm và khốn nạn như vậy.

Vấn đề đau đầu nhất của Đỗ Văn Hạo lúc này là hắn cũng không có đủ lương thực để cung cấp cho nạn dân, lương thực của Hàn Tu cung cấp cũng chỉ có hạn, không thể duy trì mãi được, Đỗ Văn Hạo biết giờ đây tất cả dân chúng chỉ trông chờ vào số lương thực này, nhưng đến một ngày nào đó số lượng thực này hết rồi thì hắn phải giải quyết sao đây?

Trong lúc ngổn ngang mọi bề thì nạn chết đói, bệnh dịch luôn luôn rình rập chờ đợi để cướp đi tính mạng của dân chúng một cách không thương tiếc, sự đe dọa của nó ngày một lớn dần và càng lúc càng trở nên đáng sợ.

Đỗ Văn Hạo biết hắn không thể chần chừ thêm được phút giây nào nữa, sau khi suy tính kỹ càng, hắn lập tức quay về phân phó công việc. Đầu tiên, hắn cho Tiền Bất Thu đem theo Diêm Diệu Thủ, Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi cùng với mấy vị đại phu của các tiệm thuốc trong Nhã Châu này tham gia vào việc cứu tế, chữa trị cho dân chúng. Đỗ Văn Hạo từ đây đã nhanh chóng thành lập được một đội y tế, đội y tế này sẽ phụ trách chữa trị cho các nạn dân trong Nhã Châu. Sau đó, Đỗ Văn Hạo lại tuyển chọn trai tráng trong thành đưa ra bên ngoài xử lý rác thải, rồi phân phối bọn họ rắc nước diệt trùng để tiệt trừ mầm mống lây bệnh truyển nhiễm. Đồng thời, Đỗ Văn Hạo cho người vận chuyển lương thực từ chỗ Hàn Tu về Châu Nha nấu cháo cho dân chúng ăn, tình hình trước mắt Đỗ Văn Hạo chỉ có thể giải quyết được đến đó mà thôi, hắn vẫn chưa nghĩ ra kế sách lo liệu sau này, mà hắn giờ đây cũng chưa có đủ thời gian để suy xét chuyện đó.

Đỗ Văn Hạo sau khi sắp xếp xong, hắn vẫn cảm thấy chưa đủ bèn sai Lý Phố dẫn một đội quan lại trong nha phủ, cùng với mấy tên bổ khoái đi vào trong thành ấp tìm đến mấy người buôn gạo điều tra, dò hỏi xem bọn họ còn bao nhiêu lương thực nữa.

Lý Phố đoán rằng những người buôn gạo chắc chắn là sẽ còn kho dự trữ lương thực riêng của bọn họ, nhưng khi chưa biết được hư thực của sự việc, Lý Phố cũng không dám tự do hành động, như vậy cũng chẳng khác gì đi cướp của người ta cả.

Mấy ngày sau đó, Đỗ Văn Hạo cùng với Tô Thức đem theo quan lại của mình đi sâu, dò xét tình hình của các thôn làng bên cạnh thành Nhã Châu. Sau khi khảo sát tình hình khôi phục của thôn làng xong, bọn họ đều hay tin đồn điền ruộng lúa nơi đây vẫn còn giữ được khá là nguyên vẹn, mọi người do vậy nên mừng rỡ vô cùng. Chính vì thế mà ngay ngày hôm đó, đoàn người do Đỗ Văn Hạo dân đầu liền trực tiếp ra xem xét tình hình ruộng lúa ở đây ra sao, vừa ra đến nơi thì tình hình quả đúng như người trong thôn nói, ruộng lúa nơi đây vẫn còn bảo tồn nguyên vẹn như chưa từng xảy ra chuyện gì. Suy cho cùng thì mục đích của bộ lạc Tây Sơn đến đây cũng chỉ là vì cướp bóc tiền của, khi đó ruộng lúa vẫn còn chưa trổ bông, nên chúng cũng chẳng làm gì được, vì vậy mà những đồng ruộng nơi đây mới thoát khỏi kiếp nạn.

Nhưng, Đỗ Văn Hạo cũng không thể mừng rỡ được lâu, vì quân Tây Sơn không thu hoạch được lúa thì hắn cũng chẳng thu hoạch được, vì lúa cũng đã trổ bông đâu! Mà theo như tình hình trước mắt thì dân chúng trong thành đang cần một khối lượng lớn lương thực để duy trì cuộc sống bọn họ, kho thóc trong Nhã Châu thì cũng bị chiến tranh hủy hoại hết cả, lương thực của Hàn Tu thì cũng đang dần cạn kiệt, giờ đây người dân trong thành lại bắt đầu quay trở lại thời kỳ bới rễ cây mà ăn. Đỗ Văn Hạo quyết định không thể đợi thêm được nữa, hắn vốn định chờ cho tình hình của Nhã Châu khôi phục xong đâu đấy rồi mới tiến hành cải cách biến pháp, nhưng bây giờ thời cuộc cấp bách hắn không còn sự lựa chọn nào khác là tiến hành cải cách sớm hơn dự định.

Về đến thành Nhã Châu thì Đỗ Văn Hạo hay tin Lý Phố đã điều tra chính xác tình hình lương thực của hội những người buôn gạo, cùng với vị trí kho hàng tàng trữ lương thực của bọn họ. Theo như khai báo thì số lượng tích trữ lương thực của bọn họ vô cùng lớn, vì những kho dự trữ này được cất giấu vô cùng bí mật nên trong lúc loạn lạc, quân Tây Sơn không hề phát hiện ra nó, chính vì thế mà kho lương thực của hội những người buôn gạo này vẫn còn nguyên vẹn, chưa có ai động tới cả. Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì mừng rỡ vô cùng, nhưng Lý Phố lại nói cho hắn biết một tin làm hắn tắt luôn nụ cười trên môi của mình xuống, tin đó là mấy hộ buôn gạo giờ đây không chịu hạ giá bán gạo cho Đỗ Văn Hạo, càng không muốn quyên góp từ thiện cho dân chúng trong thành, Đô Văn Hạo nghe mà tức điên lên, đúng là gian thương! Gian thương thì đời nào cũng có, ngay cả thời hiện đại cũng vậy, nơi nào mà xẩy ra thiên tai thì bọn chúng liền nâng cao giá tiền lương thực, đục nước béo cò. Lý Phố thấy vậy bèn ra ý bảo Đỗ Văn Hạo cưỡng chế thu lấy số lương thực đó.

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì hiểu ngay hàm ý của Lý Phố, ngoài mặt thì bảo thu hồi của cải vào hỗ trợ lương khố quốc gia, nhưng thực chất hành động này chẳng khác nào đi cướp cả. Đỗ Văn Hạo cũng không nhẫn tâm ăn không của bọn gian thương, vì suy cho cùng thì đây cũng là công sức của bọn chúng tích trữ bao nhiêu năm, tư tưởng tư lợi thì bất kể người làm kinh doanh nào cũng có, do vậy cũng không thể trách chúng được. Nghĩ vậy Đỗ Văn Hạo bèn bảo Lý Phố triệu tập hội buôn gạo đó lại về Nha Phủ, sau đó đôi bên sẽ cùng bàn bạc cách giải quyết ổn thỏa với nhau.

Mấy hộ buôn gạo sau khi biết tin Lý Phố dò la ra tông tích kho gạo của chúng thì ai cũng lo lắng đứng ngồi không yên, tất cả chỉ lo sợ trong tình hình khốn khó như thế này Đỗ Văn Hạo sẽ hạ lệnh cướp hết số gạo mà chúng tích trữ bao nhiêu năm nay. Tuy bọn chúng vô cùng cảm kích Đỗ Văn Hạo dẹp loạn giặc Tây Sơn cho Nhã Châu, nhưng người làm ăn kinh doanh lâu năm như chúng đều là những con cáo trên thương trường rồi, không bao giờ chịu mất không như vậy cả. Do vậy trước khi được Đỗ Văn Hạo mời đến Nha Môn thì tất cả bọn chúng đều đã liên kết với nhau lại, rồi cùng tìm cách đối phó với hắn.

Đỗ Văn Hạo lúc này dẫn theo Hàn Tu, Tô Thức cùng đến Nha Môn hẹn gặp hội buôn gạo kia, sau khi đọc xong Thánh Chỉ tuyên bố mình đã nhậm chức Câu Quản Nhã Châu xong, thì Đỗ Văn Hạo ban bố nội dung cải cách biến pháp mới của hắn cho mọi người biết, tất cả hội buôn gạo kia nghe xong thì thấy vô cùng lo lắng, muốn dị nghị vài lời, nhưng trông khí thế của hắn hùng hồn như vậy thì chẳng ai dám hé miệng ra hỏi, cả lũ đều xanh mét mặt mày đưa mắt nhìn nhau, lúc sau mới giả bộ đưa tay lên chúc mừng Đỗ Văn Hạo nhậm chức Câu Quản ở Nhã Châu.

Đỗ Văn Hạo sau đó liền giới thiệu thân phận của Hàn Tu cho hội buôn gạo biết, bọn chúng nghe xong thì biết đây là người đang nắm giữ binh quyền của Thành Đô, kiêm chức Đề Cử Thành Đô Phổ Lộ Thường Bình Thương phụ trách nhiệm vụ điều độ lương thực. Cả bọn biết Hàn Tu giờ đây là người cầm quyền sinh sát bọn họ ở trong tay, do vậy tất cả đều vội vã đứng dậy thi lễ với Hàn Tu để tỏ lòng kính trọng.

Hội buôn gạo này hiểu rằng Hàn Tu giờ đây mới là người có quyền cao nhất ở đây, hơn nữa ông lại lại có khả năng điều động lương thực của cả tỉnh, nếu như thất lễ với Hà Tu thì sau này con đường làm ăn của họ đều bị ảnh hưởng không nhỏ. Chính vì thế mà thái độ của chúng với Hàn Tu thậm chí còn cung kính hơn cả với Đỗ Văn Hạo.

Ánh mắt sắc bén của Đỗ Văn Hạo cũng nhận ra được sự thay đổi này, do vậy hắn bèn để Hàn Tu lên tiếng nói trước, Hàn Tu cũng là nhân vật lăn lộn nhiều năm trong quan trường, ông cũng nhận thấy ánh mắt của Đỗ Văn Hạo có ẩn ý, nên bèn ho khan lên hai tiếng rồi ôm quyền cung kính nói: “Các vị bây giờ cũng biết rồi đấy! Vị đại nhân đứng cạnh ta đây là Đỗ Ngự Y một người rất được Hoàng Thượng trọng dụng, y thuật của ông ta thiên hạ khó có ai bì được. Hoàng Thượng cũng đã ban bố Thánh Chỉ bổ nhiệm Đỗ Ngự Y đảm nhận chức Câu Quản của Nhã Châu, đồng thời còn ủy thác Đỗ Ngự Y tiến hành cải cách tân pháp ở đây. Bổn quan cho dù chức trách lên tới Đề Cử Thành Đô Phủ Lộ Thường Bình Thương nhưng cũng không được phép can dự vào công cuộc cải cách biến pháp của Đỗ Ngự Y. Chính vì vậy mà bây giờ Đỗ Ngự Y mới là người có quyền quyết định toàn bộ sự việc ở đây nên giải quyết ra sao! Đừng nói là các vị ngồi đây đều phải tuân theo mệnh của Đỗ Ngự Y, mà đến ngay cả bản thân của bổn quan cũng phải tôn trọng quyền quyết định của ông ta, không được phép thay đổi, hay dị nghị gì cả! Nếu các vị thấy điều này không ổn rồi đi tố cáo lên triều đình, thì cũng chẳng có tác dụng gì cả, bởi vì đây là ý chỉ của Hoàng Thượng, thử hỏi trên đời này còn ai dám cãi lời Hoàng Thượng nữa?”

Hội buôn gạo nghe xong, thì tất cả đều cảm thấy chưng hửng, trong bụng thầm kêu khổ, bọn chúng cứ tưởng bám được lấy Hàn Tu để lấy cớ từ chối sự điều động lương thực của Đỗ Văn Hạo, ai ngờ ông ta cũng không dám động vào hắn ta, trong bụng thầm oán trách Hàn Tu kém cỏi, nếu như bây giờ mà Đỗ Văn Hạo ra lệnh cưỡng chế thu hồi lúa gạo thì đúng là đi tong cả vỗn lẫn lãi, nhưng đây lại là ý chỉ của Hoàng Thượng, đi đâu mà kiện mà kêu khổ bây giờ? Mặc dù, Hoàng Thượng ở tít tận kinh thành, nhưng lúc này đến cả vị Đề Cử Thành Đô Phủ Lộ Thường Bình Thương Hàn Tu nắm trong tay mấy vạn binh mã này cũng không dám đả động gì đến hắn ta, thì mấy tên con buôn nhỏ bé như chúng thì sao dám ho he cơ chứ, Hàn Tu đã lên tiếng không can thiệp vào, thế thì đồng nghĩa với việc gã thanh niên trẻ tuổi này sẽ là người nắm toàn quyền quyết định ở Nhã Châu này rồi!

Hàn Tu lại tiếp tục lạnh lùng nói: “Ta đã đem những việc lợi hại ra nói hết cho các ngươi biết rồi đấy! Từ nay trở đi Đỗ Ngự Y tiến hành biến pháp ra sao, bất luân đúng sai, nếu có ai dám có ý phản đối, giở trò phá hoại thì đừng trách bổn quan vô tình!”

Những đứa buôn gạo lúc này đều chỉ biết đưa mắt lên nhìn nhau một cách tội nghiệp, nhưng nói cho cùng thì bọn chúng cũng đều là những kẻ thức thời, tuy trong bụng vô cùng ức chế nhưng cũng chỉ biết ngậm bồ hòn làm ngọt, miễn cưỡng nở ra một nụ cười, rồi đồng thanh tán đồng lời nói của Hàn Tu, tất cả cùng đồng ý phục tùng tuyệt đối ý kiến của ông, quyết không có ý giở trò phá hoại.

Đỗ Văn Hạo trông thấy vậy thì mỉm cười chắp tay lên đa tạ Hàn Tu, sau đó lại quay sang Tô Thức giới thiệu.

Việc Tô Thức được bổ nhiệm làm chức Hoàng Châu Chi Châu, trong đó bao gồm cả Nhã Châu đã được quan lại nơi đây gián dấy cáo thị khắp nơi, chính vì thế mà mọi người đều đã sớm đã nghe tiếng, nhưng giờ đây mới được gặp tận mặt Tô Thức, lúc này hội buôn gạo mới đưa mắt ra trông Tô Thức dò xét, thấy ông gầy gò ốm yếu, tuổi tầm trung niên, nhưng vẫn giữ được phong độ của một nhà nho tao nhã, hơn nữa Chi Châu lại còn có thể cai trị được Câu Quản, do vậy cả lũ đều mừng húm trong bụng như người chết vớ được phao chết đuối, vì thế mà tất cả bọn chúng đều vội vã đứng dậy chắp tay thi lễ, hòng lấy lòng của Tô Thức.

Tô Thức sau khi được Đỗ Văn Hạo giới thiệu cũng chỉ nói vài câu vô cùng ngắn gọn: “Các vị! Lúc nãy Hàn tướng quân cũng nói rồi, do vậy bổn quan cũng không cần nhiều lời nữa, bổn quan tuy là một Chi Châu nhưng cũng không được phép can thiệp vào công việc của Đỗ Ngự Y, bổn quan tin rằng tân pháp chắc chắn sẽ có lợi cho dân chúng, cứu rỗi bọn họ ra khỏi cảnh đói nghèo, không những vậy bổn quan sẽ dốc hết sức mình ra để phò tá Đỗ Ngự Y trong công cuộc đổi mới tân pháp này. Do vậy, bổn quan hy vọng mọi người cùng đồng tâm hiệp lực trợ giúp Đỗ Ngự Y có một môi trường làm việc tốt nhất! Có như vậy thì dân chúng mới có được cuộc sống ấm no hạnh phúc!”

Bọn buôn gạo nghe xong lại được một phen chưng hửng lần nữa, nhưng suy cho cùng tân pháp không biết nó lợi hại ra sao, đấy cũng là chuyện của tương lai, chuyện bây giờ là phải xem xem Đỗ Văn Hạo giải quyết kho thóc của chúng thế nào rồi mới nghĩ đến chuyện ủng hộ tân pháp hay không.

Đỗ Văn Hạo sau khi nghe Tô Thức nói xong bèn mỉm cười lên tiếng: “Mọi người không nên lo lắng như vậy! Đúng như Tô Chi Châu đã nói, biến pháp là dựa trên cơ sở do dân và vì dân, nếu như bổn quan có chỗ nào làm không tốt, chưa đáp ứng được nhu cầu của dân chúng, thậm chí còn làm tổn hại họ nữa thì mấy người cứ trực tiếp đề xuất cho bổn qua được biết, bổn quan nhất định sẽ tiến hành sửa đổi, còn nếu sửa đổi vẫn không được thì có thể phế bỏ nó đi. Lợi ích của dân chúng mới là hàng đầu! Bổn quan luôn luôn tin rằng, nếu như tân pháp của bổn quan không làm cho dân chúng có được cuộc sống hạnh phúc ấm no, thì tân pháp của bổn quan không bao giờ tồn tại lâu dài được. Một chế độ có được duy trì tốt hay không, thì đều phải có sự ủng hộ của tất cả mọi người, nhất là những người như các vị, nếu tân pháp không nhận được sự ủng hộ hết mình thì nó cuối cùng cũng sẽ bị đào thải mà thôi. Nhưng bổn quan đảm bảo với mọi người rằng, với cái tân pháp mới này tất cả mọi người ai cũng đều có lợi cả!”

Tô Thức từ trước đến giờ không hề hay biết Đỗ Văn Hạo rốt cục tiến hành tân pháp như thế nào, trên đường đi cũng dò hỏi hắn nhiều lần, tuy Thánh Chỉ có nói ông ta không được phép can dự vào công cuộc đổi mới tân pháp của Đỗ Văn Hạo, nhưng nếu như tân pháp của Đỗ Văn Hạo lại giống với của Vương An Thạch, không những không cải thiện được tình hình nghèo khổ của dân chúng, mà còn làm khổ bọn họ nữa, nếu theo như tính cách của Tô Thức e rằng khó tránh khỏi một trận cãi vã với Đỗ Văn Hạo. Nhưng, bây giờ nghe Đỗ Văn Hạo nói mục đích tân pháp của hắn là phục vụ cho dân, giúp người dân có được cuộc sống ấm no và hạnh phúc, chứ không phải tăng thêm thu nhập cho triều đình, thìông cảm thấy khâm phục vô cùng, Tô Thức sau khi nghe Đỗ Văn Hạo nói xong liền đứng luôn dậy vỗ tay ủng hộ.

Hội buôn gạo thì cũng là những người hiểu sự đời, gặp qua nhiều chuyện lớn nhỏ, nên họ còn lạ gì mấy viên quan lại chỉ biết nói những lời trống rỗng, nhưng lần này bọn họ thực sự đã bị Đỗ Văn Hạo cảm động, bởi vì không phải vị quan nào cũng dám mạnh miệng công khai ủng hộ lợi ích của dân chúng trước mặt bao nhiêu người như vậy. Sau khi nghe Đỗ Văn Hạo nói xong thì mặc dù trong lòng chúng vẫn còn lo lắng chờ đợi hắn đi vào vấn đề chính mà bọn chúng đang rất quan tâm, đó chính là ý kiến của Đỗ Văn Hạo về kho gạo của bọn họ, nhưng Đỗ Văn Hạo vẫn cứ thao thao bất tuyệt về tân pháp nên chúng cũng chỉ biết im lặng chờ đợi. Đúng lúc này hội buôn gạo lại thấy Tô Thức đứng dậy vỗ tay khen ngợi Đỗ Văn Hạo thì tất cả bọn họ cũng đều đưa tay lên vỗ theo, hòng làm cho Đỗ Văn Hạo mải mê tân pháp, nhân tiện vỗ tay tâng bốc hắn lên sẽ làm cho hắn quên luôn kho thóc của mọi người thì lại càng tốt.

Đỗ Văn Hạo thấy mọi người đều đưa tay lên vỗ tay ủng hộ mình như vậy thì cũng không ngờ tới mọi người lại ủng hộ tân pháp như thế, mới đầu chỉ có một mình Tô Thức vỗ tay, nhưng bây giờ tất cả những người có mặt ở đây đều vỗ tay tán thưởng như vậy, vì thế hắn càng thấy mình phải quyết tâm biến đổi tân pháp cho tốt hơn.

Đợi cho tràng pháp tay kết thúc, Đỗ Văn Hạo mới mở miệng nói tiếp: “Tân pháp mà bổn quan sắp sửa thực thi sẽ được tiến hành từng bước một, bây giờ bổn quan sẽ tiến hành hai hạng mục tân pháp đầu tiên, hạng mục thứ nhất là phế bỏ các biến pháp cũ của Vương An Thạch đang được thực thi ở đây!”

Vừa mới nghe Đỗ Văn Hạo ban bố bộ luật đầu tiên như vậy thì hội buôn gạo đều kinh ngạc vô cùng, phế bỏ tân pháp của Vương An Thạch là một việc vô cùng trọng đại, không được sự đồng ý của Hoàng Thượng thì ai cũng không được phép phế bỏ nó cả, vậy mà Đỗ Văn Hạo vừa đến Nhã Châu chưa ấm đít đã ban lệnh hủy bỏ thì quả thật là một hành động to gan lớn mật, nhưng cả Tô Thức và Hàn Tu thì đều thấy đó là việc bình thường, bởi vì hai người đều biết Tống Thần Tông đã đình chỉ một số điều luật trong tân pháp rồi, chính vì thế mà Đỗ Văn Hạo làm vậy cũng chẳng có gì là lạ cả. Tô Thức và Hàn Tu đều biết chỉ có phế bỏ tân pháp của Vương An Thạch, thì Đỗ Văn Hạo mới tiến hành được tân pháp của hắn.

Đỗ Văn Hạo lúc này ngập ngừng một lúc rồi mới nói tiếp: “Tân pháp thì phải dựa trên tôn chỉ do dân và vì dân, nhưng với tình hình trước mắt thì Nhã Châu huyện của chúng ta vừa trải qua một cuộc chiến khốc liệt, chính vì vậy mà vấn đề cần giải quyết trước mắt bây giờ là lo cho dân chúng có cơm ăn không bị chết đói, nhưng kho thóc của Nhã Châu bây giờ không đủ cung cấp cho dân chúng, bổn quan biết các vị thương gia ở đây vẫn còn tích trữ một khối lượng lương thực rất lớn, do vậy việc cứu tế dân chúng lúc này bổn quan chỉ có thể trông chờ được vào các vị mà thôi!”

Hội buôn gạo nghe đến đây thì giật mình cái thót, đúng là tránh được nhất thời cũng không tránh được cả đời, bọn chúng cứ ngỡ rằng Đỗ Văn Hạo mải mê tân pháp mà quyên đi chuyện thóc lúa này rồi, nhưng không ngờ hắn lại đột ngột vào đề một cách trực diện như vậy, nên tất cả mọi người trong hội buôn gạo đều giương tròn mắt lên nhìn nhau mà không biết nói gì. Nhưng chỉ trong giây lát, có người nhạy bén nhận thức được tình hình hiện nay, người này biết Đỗ Văn Hạo không phải là kẻ có thể qua loa cho xong được, nếu như bị ép vào thế cùng thì chắc chắn hắn sẽ giở trò cưỡng ép thu hồi, đến lúc đó có muốn giữ cũng không giữ được nữa, thôi thì cứ thành thật mà quyên góp, có khi như vậy lại tạo được hình ảnh tốt với Đỗ Văn Hạo, về sau làm việc còn được hắn che chở nữa.

Nghĩ vậy nên người đó vội vàng đứng dậy chắp tay nói: “Đỗ đại lão gia! Lão gia muốn bao nhiêu cứ việc nói ra, thảo dân nhất định sẽ đáp ứng cho lão gia, quyết không hai lời! Mọi người ở thành Nhã Châu này đều là bà con hàng xóm với nhau cả, yêu thương giúp đỡ nhau trong lúc hoạn nạn là việc nên làm (Đúng là miệng lưỡi của bọn gian thương, thật đáng kinh tởm), ai mà chẳng có lúc gặp phải khó khăn! Hơn nữa thảo dân cũng nhờ Đỗ đại lão gia đánh đuổi quân địch nên mới giữ được kho lương thực, nếu không thì bây giờ chắc tất cả đã bị quân giặc lấy đi hết rồi! Thảo dân quyên góp như vậy không dám có ý nào khác, mong đại nhân hiểu cho tấm lòng thành của thảo dân!”

Những người buôn gạo khác cũng đều là người thông mình, thấy người kia muốn gây ấn tượng như vậy thì cũng không chịu thua kém, tất cả cùng nhau tiến đến chắp tay nói: “Đúng vậy! Đỗ đại lão gia cần bao nhiêu cứ nói bọn thảo dân quyết không hai lời!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn mỉm cười đứng dậy chắp tay đáp: “Đa tạ các vị đã nể mặt bổn quan như vậy! Nhưng mà, các vị đã hiểu lầm ý của bổn quan rồi, lần này bổn quan mời các vị đến đây không phải là vì chuyện này, dĩ nhiên nếu các vị có lòng hảo tâm, từ bi hỷ xả, làm việc từ thiện như vậy thì bổn quan không những không ngăn cản, mà còn thay mặt dân chúng đa tạ lòng tốt của các vị nữa! (Công nhận cu Hạo cao tay thật! Bắt bọn chúng phải tự mở miệng mình ra nói tự nguyện quyên góp cho dân, còn hắn thì cũng không bị mang tiếng là ép buộc, hay mắc nợ bọn chúng!) Cái mà bổn quan định nói là điều luật thứ hai trong tân pháp!”

Hội buôn gạo nghe Đỗ Văn Hạo xong thì sững người không biết nên làm thế nào, trước khi đến đây trong lòng bọn họ luôn luôn sợ hãi Đỗ Văn Hạo cưỡng ép bọn chúng phải cống nộp lương thực để cứu tế cho dân, nên tìm đủ mọi cách để đối phó, nhưng không ngờ đến đây rồi lại thấy Đỗ Văn Hạo vòng vo tam quốc mãi rồi mới đả động đến quyên góp lương thực, cả hội đang định quyên góp để lấy lòng hắn thì Đỗ Văn Hạo lại nói mục đích tìm họ đến đây không phải là chuyện quyên góp lương thực, nhưng hội buôn gạo lúc này cũng đã trót nói mình tự nguyện quyên góp rồi nên cũng không tiện rút lại lời nói. Hơn nữa đối với bọn họ quyên góp lương thực chẳng qua là nấu vài nồi cháo to phân phát cho dân chúng là xong, vừa không tốn gạo lại còn được tiếng là người tốt nữa, nhưng so với việc bị Đỗ Văn Hạo cưỡng chế thu hồi mất cả chì lẫn chài thì còn đỡ hơn rất nhiều, nên nghĩ đến đây thì tất cả người trong hội buôn gạo đều thầm thở phào trong bụng. Nhưng sau đó lại nghe Đỗ Văn Hạo sắp ban bố tân pháp thứ hai thì lại cảm thấy lo lắng, vì không biết tân pháp này có ảnh hưởng gì đến lợi ích của bọn chúng không?

Đỗ Văn Hạo nói tiếp: “Biến pháp ngày trước có một hạng mục gọi là Thanh Miêu Pháp, hạng mục này chuyên dùng để bổ trợ cho nhân dân những lúc chưa thu hoạch, nhưng mà hạng mục này có một căn bệnh vô cùng cố hữu đó là quan phủ nhúng tay vào quản lý nó, quan phủ không những bóc lột toàn bộ lợi ích của nhân dân, mà còn ngang nhiên cho thuê ruộng đất với giá cắt cổ, cưỡng chế sản xuất! Kết quả là Thanh Miêu Pháp không những làm cho dân chúng không hưởng được ích lợi gì mà ngược lại còn tăng thêm gánh nặng cho họ! Chính vì thế mà tân pháp của ta phải rút ra kinh nghiệm xương máu của nó!”

Thanh Miêu Pháp có liên quan vô cùng chặt chẽ với hội buôn gạo, chính vì thế mà mới nghe đến đây hội buôn gạo đã nín thở nghe xem cuối cùng tân pháp của Đỗ Văn Hạo là có lợi hay có hại với chúng.

Đỗ Văn Hạo tiếp tục nói: “Thanh Miêu Pháp làm cho quan phủ lạm dụng chức quyền, thu lợi của dân. Chính vì vậy mà tân pháp mới của ta sẽ chuyển đổi quyền vay mượn của Thanh Miêu Pháp từ tay quan lại sang tay của dân chúng. Từ bây giờ trở đi các hình thức vay mượn của Thanh Miêu Pháp đều do nhân dân đảm nhận, quan phủ không được phép can thiệp!”

“Vậy nhưng, cũng không thể để dân chúng tự do vay mượn nhau như vậy, bởi vì như thế sẽ lại đi vào vết xe đổ của tân pháp cũ, cho nên ta sẽ thành lập một công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân cổ phần cho vay mượn trong biến pháp mới của ta!”

Thế nào là công ty cổ phần cho vay mượn? Tất cả mọi người tại đây đều mắt chữ o mồm chữ a chẳng hiểu mô ta gì cả, Đỗ Văn Hạo cũng biết mình đã áp dụng thuật ngữ chuyên ngành của thời hiện đại áp dụng vào đây, nên chả trách ngay cả một đại văn hào văn hay chữ tốt như Tô Thức cũng chẳng hiểu mô tê gì cả.

Đỗ Văn Hạo biết vậy nên cũng đã chuẩn bị sẵn, hắn đem những kiến thức và kết cấu trong công ty ra nói cho mọi người hiểu, sau nửa canh giờ giải thích,thì hội buôn gạo cũng hiểu ra hết ý nghĩa trong lời nói của Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo thấy mọi người cũng đã nắm được ý tưởng của hắn nên lại tiếp tục giảng giải: “Chế độ này không phải là cưỡng chế, hay ép buộc mà nó làm theo tôn chỉ tự nguyện, những quan lại đại biểu cho triều đình gia nhập công ty thì cho dù hàng tháng vẫn được nhận bổng lộc của triều đình, nhưng lại không được có quyền hành gì cả, như vậy cũng có nghĩa là một khi quan chức triều đình đã chấp nhận làm nhân viên trong công ty rồi, thì họ sẽ không có quyền hành gì nữa. Bọn họ chỉ là đại biểu thay mặt cho triều đình đầu tư vào công ty mà thôi, về mặt pháp luật thì quyền biểu quyết của bọn họ cũng giống với người dân đầu tư thông thường, tất cả đều phải dựa vào số vốn đầu tư mà quyết định, số ít phải phục tùng số nhiều, bọn họ không hề có chút đặc quyền nào khác cả!”

Hội buôn gạo nghe xong thì mừng rỡ ra mặt, gật đầu tán thưởng, một người trong số họ còn lên tiếng nói: “Nói như vậy thì khi bọn thảo dân gia nhập đầu tư vào công ty thì có thế tự mình tiếp tục cho vay lương thực đúng không ạ?”

Thanh Miêu Pháp làm cho quan lại lũng đoạn thị trường, ngăn cấm người dân cho vay cho mượn, chính vì thế mà người trong hội buôn gạo kia mới lên tiếng hỏi như vậy.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn mỉm cười gật đầu nói: “Đó là điều dĩ nhiên!”

Hội buôn gạo nghe xong thì mừng vui khôn tả, nên biết rằng trước khi tân pháp của Vương An Thạch được ban hành, hội buôn gạo ngoài trừ việc mua bán gạo đổi lấy tiền ra, bọn họ còn có một nguồn thu nhập lớn khác, là trong lúc vụ mùa chưa chín có thể cho dân chúng vay gạo, vay thóc. Sau đó chờ đến mùa thu hoạch thì lợi nhuận đã tăng vọt lên theo thành một con số khổng lồ, nhưng sau khi Thanh Miêu Pháp của Vương An Thạch ra đời thì con đường làm ăn này của bọn họ đã bị bóp nghẹt, do vậy sau khi nghe Đỗ Văn Hạo nói rằng bọ họ lại có thể làm ăn như xưa thì cả lũ đều mừng rỡ ra mặt.

Đỗ Văn Hạo thấy hội buôn gạo mừng rỡ như vậy cũng không vội vàng lên tiếng ủng hộ bọn chúng, hay nói ra ý kiến của mình mà chỉ nói: “Thế này vậy! Bây giờ ta cho các ngươi thương lượng nửa canh giờ, sau đó các ngươi nói cho ta nghe ý kiến của các ngươi! Tôn chỉ của ta vẫn như cũ, đây là tự nguyện không hề ép buộc!”

Nói xong, Đỗ Văn Hạo bèn cùng Tô Thức và Hàn Tu rút hết ra bên phòng bên ngoài, để lại hội buôn gạo ở sau hậu đường bàn bạc riêng với nhau.

Tô Thức vừa ra đến ngoài đã thấp giọng hỏi Đỗ Văn Hạo: “Vân Phàm huynh! Phương pháp này của huynh không biết có vận hành được hay không?”

Đỗ Văn Hạo cũng không biết hắn bê nguyên cung cách thương mại, kinh doanh từ thời hiện đại mang vào thời cổ đại vận dụng có kết quả ra sao? Mô hình kinh doanh kiểu công ty có thích hợp với môi trường kinh tế của thời nhà Tống hay không? Tất cả hắn đều không nắm chắc được, vì thế mà sau khi nghe Tô Thức hỏi vậy cũng chỉ biết cười khổ đáp: “Tại hạ bây giờ cũng không thể trả lời huynh ngay lúc này được! Chỉ có thời gian mới trả lời được cho chúng ta biết điều này!”

Tô Thức và Hàn Tu nghe xong bèn gật đầu khen phải.

Đỗ Văn Hạo nói tiếp: “Tử Chiêm Huynh và Tử Hoa huynh suy nghĩ hộ tại hạ xem nếu như hai người là người trong hội buôn gạo kia thì hai người có muốn gia nhập vào trong công ty cổ phần cho vay mượn này không?”

Tô Thức và Hàn Tu cùng quay sang nhau nhìn một cái, rồi trầm ngâm giây lát, một lúc sau thì Hàn Tu lên tiếng nói: “Tại hạ thấy phương pháp của Vân Phàm huynh cũng có chỗ hợp lý, suy cho cùng bọn chúng đều là dân buôn, có lợi như vậy lẽ nào bọn chúng lại không làm, chỉ cần có tiền thì cho dù có phải mạo hiểm đến mấy bọn chúng cũng làm, chính vì vậy mà tại hạ nghĩ rằng, bọn họ sau khi cất nhắc lợi hại xong đâu đấy thì sẽ gia nhập thôi! Cái lợi của bộ luật tân pháp mới của Vân Phàm huynh ở chỗ bọn chúng có thể cho vạy gạo thóc, có cơ hội kiếm tiền như vậy tội gì không kiếm chác cơ chứ. Bọn chúng dựng kho thóc lớn như vậy mục đích cũng dùng là để ém hàng rồi cho vay, chính vì thế khi Vân Phàm huynh đồng ý cho bọn chúng cho vay thóc gạo như vậy thì bọn chúng chắc chắn sẽ gia nhập công ty thôi!”

Tô Thức cũng đứng ở cạnh đó gật đầu nói thêm vào: “Đúng vậy! Bách tính bây giờ đang gặp cảnh lầm than, khốn khó như vậy, làm gì còn có tiền mà mua lương thực nữa, nhưng bọn họ lúc này vẫn còn ruộng đồng, tuy đã bị tàn phá, nhưng chỉ cần tu sửa lại là có thể trồng trọt được rồi. Chính vì vậy mà chỉ cần hội buôn gạo cho vay với lãi suất hợp lý, thì dân chúng chắc chắn sẽ đồng ý đi vay thôi! Hơn nữa bây giờ hội buôn gạo mở kho thóc ra cho vay rồi chờ đến vụ mùa sau thu lãi, sẽ có lợi hơn việc cứ để chúng mốc ở trong kho! Chính vì lý do này mà lão phu nghĩ hội buôn gạo sẽ gia nhập công ty cùng chúng ta mà thôi!”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.