Tượng Đồng Đen Một Chân

Chương 42: Ám ảnh kinh hoàng




Trong xe ngựa của Vân Thường, ấm áp thoải mái.

Biệt viện ẩn cư chìm trong biển máu đã lùi xa chẳng còn dấu tích.

Sính Đình thu mình trong góc xe, chẳng còn lòng dạ nào mà ngắm trăng trên trời.

Sau hôm nay, mặt trăng thân yêu đã không còn dịu dàng như thuở ban đầu, mà lặng lẽ soi rọi những cõi lòng tan nát, những thị vệ chết không nhắm mắt trong tiếng đuổi giết rền vang.

Hà Hiệp đẩy từng cánh cửa, nhẹ nhàng tháo dây thừng cho nàng, đưa nàng cùng chiếc hộp mạ vàng ra ngoài.

Nàng giẫm lên máu của các nam tử hán, đi ra cổng lớn.

Đôi giày lụa trắng muốt nhuộm đỏ như ánh chiều tà, in hằn trên nền tuyết trắng.

Lòng đau như cắt.

Khắp mặt đất này, không chỉ có máu của những người khác, mà vương cả máu trào ra từ tim nàng, thấm xuống tuyết, nhưng chẳng tan được tia băng lạnh.

Rèm xe trắng tinh, bệ cửa chạm khắc tinh xảo, thật là một chiếc lồng tinh tế.

Chẳng biết từ đâu lao đến, móng tay và ống tay áo nhuộm đỏ máu, Túy Cúc nhào xuống chân Sính Đình: “Cô nương, cô nương! Hãy để Túy Cúc đi theo chăm sóc cô nương!”.

Những thị vệ bên cạnh Hà Hiệp tuốt gươm sáng loáng.

Sính Đình quay lại, nhìn Hà Hiệp: “Đây là thị nữ của muội”.

Nhìn Túy Cúc đang nằm bò dưới đất, Hà Hiệp dịu giọng: “Lên xe đi”.

Trong xe, thêm một người bầu bạn, nàng vẫn nguyên cô độc, vẫn nguyên lạnh lùng.

Túy Cúc, hà tất phải khổ vậy?

Sính Đình lắng nghe tiếng vó ngựa gấp gáp bên ngoài. Bánh xe quay thật nhanh, đưa nàng rời xa khỏi nơi của Sở Bắc Tiệp.

Nàng không thấy đau, cũng chẳng muốn khóc.

Nàng quyết định quên hết đau khổ và nước mắt, cũng như phải vĩnh viễn quên giọng nói, điệu cười của con người ấy.

Cuối cùng, nàng hiểu rằng, chân tình không hề quan trọng như mình tưởng tượng.

Quốc ân như biển, quốc hận như núi.

Nàng sao có thể sâu hơn biển, cao hơn núi?

Giọng hát dưới trăng, tiếng đàn trong tuyết, sao sánh được đại nghĩa quốc gia?

Tình yêu chân thành và thuần khiết nhất thế gian không phải là sức mạnh vô song, không đấu lại được với danh lợi quyền thế, với thế sự vô thường, với tình thân ruột thịt, và với một tội danh vu vơ.

“Là thị nữ bên cạnh Hà Hiệp, chẳng lẽ nàng không biết Hà Hiệp là một danh tướng đương thời?”

“Thế nào là danh tướng? Chính là biết phân rõ cái nào trọng cái nào yếu, có thể gạt bỏ tình riêng, cắt đứt tư lợi.”

Lời nói như vẫn bên tai, Bạch Sính Đình cười thầm.

Con người ấy chẳng phải cũng là danh tướng?

Lẽ nào chàng lại không biết phân rõ trọng yếu, gạt bỏ tình riêng, cắt đứt tư lợi?

Chàng đã lựa chọn rất đúng, chọn rất phải.

Đã là danh tướng thì phải dứt khoát đập vỡ trái tim không chốn quay về, hủy hoại linh hồn chẳng nơi dung thân.

Nụ cười khoáng đạt bỏ lại lời thề non hẹn biển.

Đã là danh tướng, phải không oán hận.

Bánh xe vẫn lăn, chạy như bay trên đường.

Hà Hiệp nóng lòng trở về nhà mới. Có được Sính Đình, hắn cưỡi ngựa tiên phong, chẳng màng gió tuyết.

Vân Thường, nơi cung điện huy hoàng sâu thẳm bên kia tầng mây của ái thê Diệu Thiên công chúa, liệu có phải quê mới của Hà Hiệp?

Ngoài Vân Thường, Hà Hiệp còn chỗ nào để đi?

Sao tìm lại được vương phủ Kính An xưa?

Hà Hiệp và cả Sính Đình đều không thể quay về.

Gió lạnh thê lương, ánh trăng bàng bạc, xuyên qua tim, quấn lấy xương cốt, Hà Hiệp quay lại, nhìn chiếc xe đang lăn bánh phía sau.

Sính Đình đã trở về, dẫu đứt hết ruột gan, dẫu mất sạch hồn phách, cũng vẫn còn chút đoạn ký ức còn sót lại ở vương phủ Kính An.

Còn nàng, ngày xưa còn đó.

Nàng còn, một Hà Hiệp chính trực, quang minh lỗi lạc, tiếu ngạo tứ quốc cũng vẫn tồn tại.

“Thiếu gia!”, tiếng gọi của Đông Chước khiến Hà Hiệp cảnh giác. Đông Chước từ đội quân dẫn đầu phi ngựa quay lại, ghìm cương trước Hà Hiệp: “Thiếu gia, phía trước có người cản đường, nói muốn gặp thiếu gia”.

Ánh mắt sáng quắc, Hà Hiệp trầm tư rồi giơ tay ra hiệu cho đội quân phía sau dừng lại.

Cả đoàn quân dừng bước.

“Dẫn qua đây.”

Một lúc sau, nam nhân bị trói hai tay được đẩy đến trước ngựa của Hà Hiệp.

“Ngươi muốn gặp ta?”, Hà Hiệp từ trên cao nhìn xuống, đánh giá nam nhân trước mặt.

Người này ăn vận thư sinh, thân hình gầy gò, nhưng cử chỉ chắc chắn, chẳng chút hoảng sợ trước hai hàng thị vệ hung dữ của Hà Hiệp. Người ấy ngẩng đầu lên nói: “Tiểu tướng Phi Chiếu Hành ngày đêm không ngủ đi vội mấy ngày liền, ở đây chờ tiểu Kính An vương đã ba canh giờ, chỉ mong gặp tiểu Kính An vương, đưa lên một tin quý giá”.

Hà Hiệp im lặng nhìn người trước ngựa, không hỏi là tin gì, mà sa sầm nét mặt, hừ một tiếng lạnh lùng: “Sao ngươi biết bản phò mã sẽ qua đất này?”.

Hai hàng thị vệ đồng loạt rút kiếm, chĩa thẳng vào người lạ mặt. Chỉ cần đáp sai một tiếng, những ánh kiếm kia sẽ nhất tề lao xuống người hắn.

Không hề sợ sệt, Phi Chiếu Hành cười nói: “Tứ quốc đều có tai mắt của mình, chẳng dám giấu tiểu Kính An vương, ngay cả chủ nhân của tiểu tướng cũng không dám chắc tiểu Kính An vương có ngang qua đây vào giờ này không. Chủ nhân chỉ sai tiểu tướng đến chờ thử chút vận may. Hơn nữa, nếu tiểu Kính An vương không đi qua đây giờ này, thì tin tức tiểu tướng muốn đưa đến hoàn toàn chẳng có giá trị với tiểu Kính An vương”.

Đôi mắt nhìn thấu lòng người dừng trên khuôn mặt Phi Chiếu Hành, không tìm thấy một tia giả dối. Giọng chậm lại, Hà Hiệp hỏi: “Chủ nhân ngươi là ai? Rốt cuộc có tin gì?”.

“Chủ nhân tiểu tướng là…”, Phi Chiếu Hành tiến lên phía trước một bước, hạ giọng, “Vương hậu nương nương của Quy Lạc quốc”.

Sở Bắc Tiệp dẫn đầu đoàn kỵ binh, rầm rập tiến về phía tây.

Binh mã mệt mỏi nhưng không ai bị tụt lại

Đến lúc mặt trăng phải khiếp vía, lặng lẽ lẩn vào chốn không người, mặt trời cũng chưa dám ló dạng.

Sắp đến bình minh, sắc trời càng tối.

“Đi!” Sở Bắc Tiệp vẫn phi như bay trong gió.

Tay chân chàng gần như đã tê cứng, chỉ có thanh kiếm trên hông vẫn nóng rẫy, cháy bỏng khát vọng trả thù.

Máu tươi, thi thể, cát vàng.

Nỗi lo lắng cùng lòng căm phẫn chất chứa trong lồng ngực, chàng khao khát được vung kiếm, được cảm nhận hào khí khi quân địch đầu rơi máu chảy, được giẫm lên thi thể kẻ địch rồi quỳ gối trước Sính Đình thành tâm nhận lỗi, và được say đắm với hương thơm nơi gấu váy nàng.

Ngọn Hoành Đoạn đã ở ngay trước mắt, Sở Bắc Tiệp xông lên đỉnh núi, nhìn về bốn phía tối om. Một khắc trước bình minh của ngày đông, vạn vật chìm trong màu đen tối. Đôi mắt vằn đỏ sáng ngời của chàng nhìn quanh. Động tĩnh thoáng qua trên con đường núi khiến đôi đồng tử chàng co lại.

Ngựa hí vang!

Trong đêm đen, thấp thoáng những bóng người.

Sở Bắc Tiệp nín thở.

Chàng rút kiếm, khát vọng cháy bỏng nhảy múa trong ánh mắt.

Thần Mâu từ phía sau lên đến, nhìn theo ánh mắt của Sở Bắc Tiệp, hắn cũng nhận ra những bóng người trong đêm. Đã làm tướng nhiều năm, Thần Mâu hiểu ngay tình thế, hạ giọng: “Xem ra, lượng người không đông, chắc binh mã Hà Hiệp để lại”.

Thấy tung tích quân địch, ngay lập tức Sở Bắc Tiệp quay về với vẻ ung dung tự tin trên sa trường, hạ giọng: “Hà Hiệp phải để binh mã chặn đường ở đây, chứng tỏ quân chủ lực của hắn vẫn ở trong núi Hoành Đoạn”.

Nếu đại quân của Hà Hiệp đã an toàn qua núi Hoành Đoạn, tiểu đội binh mã này cũng sẽ lập tức khởi hành, đuổi theo tập hợp với đoàn quân kia.

“Đuổi giết ngay lập tức, để lại một tên có cấp bậc, để tra hỏi hướng đi của đại quân.”

“Rõ!”

Thanh kiếm nóng đến bỏng tay, nhưng trái tim chàng còn nóng hơn.

Sở Bắc Tiệp nắm chắc dây cương, nhìn chăm chăm về phía đỉnh núi Hoành Đoạn quen thuộc trước mắt.

Sính Đình, nàng có đang ở trong dãy núi kia không?

Xin nàng hãy quay lại, dù chỉ là một thoáng.

Mảnh đất già nua này xin được yên lặng vì nàng.

Ba ngàn bảy trăm thanh gươm này cũng xin được chói sáng vì nàng.

Sở Bắc Tiệp ngu dốt nhất, không biết trân trọng nhất thiên hạ đã đến đây vì nàng.

Chỉ cần được thấy nụ cười rạng rỡ của nàng, nhiệt huyết sâu kín nhất của kẻ nam nhi này từ nay xin dành trọn cho nàng.

Lòng bàn tay cầm kiếm lần đầu tiên toát mồ hôi lạnh.

Dáng hình Sở Bắc Tiệp vững như núi, chậm rãi giơ kiếm, như muốn xuyên qua bóng tối vô tận, hô vang một tiếng khản đặc: “Giết!”.

“Giết! Giết! Giết!”

Mặt đất rung chuyển.

Ánh kiếm nhất loạt vung ra, tiếng đuổi giết vang khắp bốn phía.

Thiên quân vạn mã xông xuống dốc núi, giẫm nát bình minh yên tĩnh.

Ba ngàn bảy trăm kỵ binh giận dữ, tiến thẳng vào trận địa mai phục của kẻ thù.

Những hầm hố, đá hộc, nỏ căng, tên nhọn quân địch dụng công sắp xếp, không ngờ lại gặp phải nộ khí ngút trời.

Tướng không sợ chết, quân chẳng sợ thương, khí thế như thủy triều dâng.

Lạnh hơn cả bóng kiếm là ánh sáng nơi đáy mắt vị tướng quân. Sở Bắc Tiệp cưỡi ngựa tiên phong, thanh kiếm trong tay uống cạn máu kẻ thù. Tuấn mã hí vang, chàng mặc kệ tướng sĩ đằng sau có theo kịp hay không.

“A!”

Những tiếng kêu thảm thiết vây quanh Sở Bắc Tiệp. Máu đỏ như hoa mai nở rộ dưới vó ngựa, dệt nên một bức tranh oanh liệt.

Không ai có thể chống lại Sở Bắc Tiệp trong cơn giận dữ, quân địch nhanh chóng tan tác chỉ vẻn vẹn trong một khắc.

Hai quân giao tranh, ba ngàn bảy trăm kỵ sĩ gào thét vang dội từ đông sang tây, quét sạch bóng quân thù. Khi chiến mã của Sở Bắc Tiệp lao qua trận địa địch, cuộc chiến đã đến hồi kết thúc.

Lấy giận dữ áp chế quân thù.

Đây là cuộc tiến công không có sách lược, nhưng dũng mãnh nhất.

Mùi máu tanh nồng khắp rừng.

Đây không phải chiến tranh, mà là tàn sát. Quân địch chưa đến một ngàn người đều đã phơi thây tại chỗ.

Sau trận cuồng sát, sự yên tĩnh chết chóc đã thay thế vó ngựa cuồn cuộn.

Máu đỏ chạy dọc lưỡi kiếm.

Thần Mâu giải tên tù binh còn sống, hất mạnh xuống chân ngựa của Sở Bắc Tiệp. Tên này khắp người bị thương, tuy mặc trang phục binh lính, nhưng khí thế tướng quân nổi bật, khác hẳn người thường, sao có thể thoát khỏi con mắt của kẻ lão luyện trên sa trường?

“Đại quân của Hà Hiệp hiện đang ở đâu?”, Sở Bắc Tiệp hỏi.

Giọng không hề uy hiếp, song ánh mắt chàng hoàn toàn áp đảo.

Tướng địch sững sờ, ngẩng đầu nhìn Sở Bắc Tiệp. Thấy người trên ngựa khí thế ép người, nhưng trong bóng tối nhìn không rõ mặt, hắn vội hỏi: “Tướng quân là người nào?”.

“Sở Bắc Tiệp.”

“Đông Lâm Trấn Bắc vương?”, tướng địch kinh ngạc kêu lên: “Chính là Trấn Bắc vương?”, khuôn mặt đầy nghi ngờ không hiểu.

Thấy có chút không ổn, Sở Bắc Tiệp trầm giọng: “Ngươi không phải người của Hà Hiệp?”.

“Đương nhiên không phải.”

“Nói rõ xem!”

Tướng địch bỗng im lặng, suy nghĩ giây lát, rồi cắn răng, chắp tay nói: “Binh lực của tiểu tướng bị tổn thất, không thể hoàn thành nhiệm vụ, dù sống quay về cũng chỉ một con đường chết. Nếu đã như vậy, chi bằng ta trao đổi với nhau. Tiểu tướng sẽ nói hết những gì mình biết, chỉ mong Trấn Bắc vương buông tha cho những thuộc hạ còn đang thoi thóp”.

Sở Bắc Tiệp biết đã đoán sai tung tích địch, trong lòng rối như tơ vò, ngoài mặt lại càng bình tĩnh, giọng lạnh lùng: “Ngươi nói đi”.

Tướng địch nghe vậy, biết thỏa thuận đã thành công. Một lời của Trấn Bắc vương nặng tựa ngàn vàng, tướng địch không hề do dự, lập tức lên tiếng: “Tiểu tướng là Triệu Văn, tướng của Quy Lạc. Đại vương nhận được mật báo, Hà Hiệp rất có khả năng sẽ bí mật xâm phạm Đông Lâm cướp Bạch Sính Đình. Đây là cơ hội ngàn năm có một, vì thế Đại vương lệnh cho tiểu tướng lập tức dẫn quân ngầm tiến vào vùng núi Hoành Đoạn, chặn đường Hà Hiệp, tìm cơ hội đưa Bạch Sính Đình về Quy Lạc”.

“Quy Lạc vương Hà Túc?”, Sở Bắc Tiệp chau mày: “Sao Quy Lạc vương lại biết Hà Hiệp sẽ đi qua núi Hoành Đoạn?”.

Quả nhiên, Triệu Văn dốc hết sự tình: “Theo mật thám báo về, gần đây biên giới Vân Thường đoạn giáp núi Hoành Đoạn thường xuất hiện binh sĩ. Chắc vì Hà Hiệp chọn vùng núi này làm đường về, nên mới sắp xếp đội quân tiếp ứng”.

Thần Mâu xen vào, hỏi: “Ngươi dẫn theo bao nhiêu binh mã?”.

“Chín trăm?”

Thần Mâu lộ vẻ nghi ngờ, cười nhạt: “Ngươi chỉ có chín trăm binh mã, lại dám vào Đông Lâm chặn đường Hà Hiệp?”.

“Binh mã quá đông, sẽ khiến quân Đông Lâm phát hiện. Đây là đội quân sở trường mai phục của Quy Lạc, có thể yên ổn vào được Đông Lâm đã là may lắm rồi. Hơn chín trăm tinh binh, thừa sức mai phục Hà Hiệp, nào ngờ lại gặp phải hơn ba ngàn binh mã của Trấn Bắc vương…”

Thấy người này lời lẽ thẳng thắn, chẳng chút dối trá, Thần Mâu lại hỏi: “Ngươi có biết Hà Hiệp dẫn theo bao nhiêu binh sĩ không?”.

“Chẳng lẽ lại hơn một ngàn?”, Triệu Văn hỏi thay lời đáp.

“Đúng tám ngàn.”

Triệu Văn không tin, lắc đầu: “Không thể nào, Hà Hiệp vào Đông Lâm còn sâu hơn chúng ta, nếu có tám ngàn binh mã, chắc chắn sẽ bị quân Đông Lâm phát giác”.

Thần Mâu gặp Sở Bắc Tiệp khi trở về thành đô, cả đường vội vã đuổi theo cho kịp, cũng chưa có thời gian suy tính trước sau, nay nghe Triệu Văn nhắc đến chuyện này, lại nghĩ đến việc mình bị điều khỏi doanh trại Long Hổ, trong lòng bỗng chùng xuống, nhìn trộm Sở Bắc Tiệp.

Sắc mặt Sở Bắc Tiệp sa sầm, ánh mắt đau đớn bi thương.

Tám ngàn quân địch, dù có bản lĩnh ẩn giấu hành tung, qua mặt được quân bảo vệ biên cương, nhưng bao vây biệt viện ẩn cư, sao có thể không kinh động đến doanh trại Long Hổ gần đó?

Sự giải thích duy nhất chính là Đông Lâm vương đã cố tình sắp đặt, mở cửa biên giới cho quân địch vào cướp Bạch Sính Đình, nữ nhân trong lòng của Sở Bắc Tiệp.

Thời gian cấp bách, Sở Bắc Tiệp không muốn nói đến việc này, nên hỏi thẳng vấn đề quan trọng nhất: “Ngươi vẫn mai phục ở đây, chắc Hà Hiệp chưa đi qua. Nhưng chúng ta đuổi theo ngay sau hắn. Rốt cuộc, binh mã của Hà Hiệp đang ở đâu?”.

Triệu Văn lắc đầu: “Đây là đường vào duy nhất của vùng núi Hoành Đoạn, tiểu tướng có thể đảm bảo Hà Hiệp chưa hề đi qua”.

Thần Mâu thở dài: “Cách giải thích duy nhất là giữa đường Hà Hiệp đổi sang hướng khác”.

Triệu Văn nói giọng thất vọng: “Nếu mật chỉ của Đại vương chúng ta không sai, đội quân tiếp ứng của Vân Thường chỉ đóng ngay gần núi Hoành Đoạn, Hà Hiệp vội vã đổi đường về sẽ khiến hành trình càng nguy hiểm. Trừ phi hắn biết ở đây có mai phục”.

“Biết cũng chẳng có gì lạ. Quy Lạc có tai mắt, lẽ nào Vân Thường lại không có mật thám?”, Thần Mâu nói.

Sở Bắc Tiệp trong lòng buồn bã, chẳng còn bụng dạ nào truy cứu việc tại sao Hà Hiệp lại sáng suốt đổi hướng, chỉ lặng lẽ tra kiếm vào vỏ, dặn dò: “Mai táng cho những huynh đệ tử nạn, toàn quân dừng cách chiến trường ba dặm nghỉ ngơi. Mọi người cắm trại nấu cơm, ngủ một giấc, trưa mai lại xuất phát”.

Thần Mâu kinh ngạc: “Chúng ta không đuổi tiếp sao?”.

“Có đuổi kịp không?”, Sở Bắc Tiệp hạ giọng hỏi lại một câu. Lòng đau như cắt, chàng siết chặt dây cương, vết thương trong lòng bàn tay càng thêm đau rát, trầm giọng: “Chúng ta đuổi sai đường, giờ quay lại cũng muộn rồi”.

Dù chàng có cưỡi thiên lý mã, có đuổi đến nơi, Hà Hiệp cũng đã về đất Vân Thường.

Đến lúc đó, ở phương trời của Hà Hiệp, không chỉ đơn giản là tám ngàn quân nữa.

Chưa vào đến biên giới Vân Thường, ba ngàn quân đấu với tám ngàn quân, chín phần chết một phần sống, chỉ còn một tia hy vọng.

Vào đến biên giới Vân Thường, hai bên càng thêm chênh lệch. Ba ngàn quân đấu lại hàng vạn quân, sao có thể phá vỡ đội quân nòng cốt của Hà Hiệp? Dù giết đến một binh tốt cuối cùng, chàng cũng chẳng còn cơ hội nhìn thấy khuôn mặt xinh đẹp thanh tú trước khi nhắm mắt.

Nếu chưa từng tấn công đã tử trận, tiếng đàn từ nay hoang vắng, giai nhân tù túng xứ người.

Không cam tâm!

Sao có thể cam tâm?

“Vương gia… Vương gia định thế nào?”, Thần Mâu thực hiện lời hứa thả đám tàn binh của Triệu Văn, rồi quay lại, đối diện với vẻ mặt cố nén đau thương của Sở Bắc Tiệp.

“Đến biên cương, tập kết đại quân.” Bình minh tới trong mùi tanh của gió, ánh mắt thâm trầm nhìn về phía Vân Thường xa xôi, khóe môi chàng nhếch lên vẻ lạnh lẽo quyết không hối hận, “Bản vương sẽ dẫn theo binh lực của toàn Đông Lâm, cắt dần từng tấc đất của Vân Thường, cho tới khi Hà Hiệp chịu hai tay dâng trả Sính Đình”.

Anh hùng, hồng nhan; ánh kiếm, tiếng đàn.

Sính Đình, nụ cười của nàng, cái nhíu mày của nàng, đẹp như giấc mộng, khiến ta đau lòng biết bao.

Xin nàng hãy quay về tặng ta, dù chỉ một nụ cười.

Ta sẽ đem binh lực của toàn Đông Lâm và những oan nghiệt đời đời kiếp kiếp không trả hết, phụ họa cho sự kiều diễm ẩn sâu nơi lúm đồng tiền của nàng.

Đông đã sắp qua mà hơi lạnh vẫn chưa tan.

Cục diện tứ quốc thay đổi, theo hiệp định đồng minh lúc trước, Bắc Mạc vương đã lấy lại được địa giới vùng biên bị quân Đông Lâm chiếm cứ, Bắc Mạc rút quân ngay lập tức.

Hà Hiệp nhanh chóng đạt được mục đích. Ba mươi vạn liên quân hùng dũng đe dọa biên cương Đông Lâm chưa xảy ra một trận chiến đã yên ổn rút quân.

Bách tính chỉ nghĩ ông Trời từ bi, mà không biết nguyên do kinh hồn bạt vía bên trong, nỗi đau đứt ruột muốn khóc mà chẳng còn nước mắt.

Lòng người vừa yên, tình thế lại thay đổi bất ngờ.

Nhận được tin quân địch đã rút, cả đám người ăn ngủ không yên trong vương cung Đông Lâm thở phào nhẹ nhõm. Tiệc mừng long trọng thịnh soạn của cung đình còn chưa kết thúc, một tin khác đã đến như sét đánh giữa trời quang.

Trấn Bắc vương Sở Bắc Tiệp dùng binh phù tập kết và thống lĩnh binh mã toàn quốc tiến thẳng đến biên cương Vân Thường!

Cung điện to lớn nhường ấy, tiếng ca hát bỗng dưng im bặt, các đại thần nhìn nhau, không biết nên làm thế nào.

Vân Thường không giống Quy Lạc và Bắc Mạc. Vân Thường nghỉ ngơi dưỡng sức đã lâu, giờ lại có danh tướng đương thời Hà Hiệp nắm giữ binh quyền.

Dốc hết sức lực xâm phạm Vân Thường, chắc chắn tử thương sẽ trầm trọng. Đông Lâm lấy đâu ra binh mã để phòng ngự Quy Lạc, Bắc Mạc nhân lúc loạn lạc mà giậu đổ bìm leo?

Trấn Bắc vương xưa nay vốn thận trọng, sao bỗng chốc trở nên hồ đồ, làm một việc chẳng khác nào tự sát?

“Có thật vậy không?”, bàn tay bưng chén rượu của Đông Lâm vương dừng giữa không trung, nhìn chằm chằm sứ giả truyền lệnh đang mệt mỏi, người đầy bụi bặm quỳ dưới đại điện.

Tiếng đàn hát đã ngừng bặt, đám ca kỹ lúc nãy còn tưng bừng vui ca đã cảm nhận được không khí nguy hiểm bất ngờ vừa xuất hiện, cũng run rẩy quỳ mọp một bên, đầu cúi gằm.

Đã cấp tốc đi mấy ngày đường, giọng sứ giả khản đặc, lớn tiếng bẩm báo: “Bẩm đại vương, lệnh soái của Trấn Bắc vương đã hạ sáu ngày trước. Giờ các tướng ở biên cảnh cùng tướng quân của tứ đại quân trại Đông Lâm đã phụng mệnh khởi hành, vội vã ra biên ải hợp nhất với Sở Bắc Tiệp”.

Đông Lâm vương không nói một lời, quay lại nhìn Vương hậu sắc mặt đã trắng bệch, rồi chậm rãi đặt chiếc cốc vàng trong tay xuống, ánh mắt đảo qua một lượt khắp đại điện: “Các ngươi thấy thế nào?”.

Trấn Bắc vương ẩn cư rồi quay lại thành đô, cả nước vui mừng, nhưng mấy ngày sau, Trấn Bắc vương vội vã ra đi một cách khác thường. Việc của Đông Lâm vương và Bạch Sính Đình, các vị quan chức vụ thấp không biết rõ nội tình nên không dám nói bừa, người chức tước cao càng im hơi lặng tiếng.

Không khí yên ắng đến ngạt thở bỗng chốc bao trùm đại điện.

Lão Thừa tướng Sở Tại Nhiên đang suy nghĩ đến vấn đề khác, bèn lên tiếng hỏi sứ giả: “Vương gia điều động quân trấn giữ biên ải và tứ đại doanh trại thường trú của Đông Lâm như thế, tuyến phòng vệ biên ải tiếp giáp với Bắc Mạc và Quy Lạc sắp xếp như thế nào?”.

“Để lại một phần mười quân trấn giữ đóng tại các trạm kiểm soát.”

Chỉ để lại một phần mười quân trấn giữ.

Quân thần lao xao.

Nếu như vậy, các trạm kiểm soát thật chẳng khác nào bù nhìn, nhỡ chăng hai nước còn lại đột nhiên khiêu chiến, há chẳng phải có thể chọc thẳng vào bụng Đông Lâm?

Mọi ánh mắt đổ dồn về phía Đông Lâm vương.

Sắc mặt Đông Lâm vương vô cùng khó coi, đôi mắt không ngừng chớp. Ông cầm cốc rượu, chậm rãi uống cạn, trầm giọng: “Quả nhân muốn yên tĩnh một lát, lui hết cả ra”.

Quần thần hoảng sợ đứng dậy, nháo nhác rời khỏi những chiếc bàn đầy cao lương mỹ vị như ong vỡ tổ, nhất loạt cúi đầu: “Thần cáo lui!”.

Đám ca kỹ đang quỳ một bên và đội nhạc công cũng lặng lẽ nối đuôi nhau lui ra.

Vẻ im lặng thật sự bắt đầu khi quần thần đã rời đi. Trải khắp đại điện là đống bề bộn sau yến tiệc, vẻ hoang vắng sau cuộc náo nhiệt.

Đại quân tập hợp ở biên cương, khiêu chiến với Hà Hiệp.

Vì quốc gia này, Đông Lâm vương không tiếc dùng kế với đệ đệ của mình, hy sinh Bạch Sính Đình.

Nay Sở Bắc Tiệp vì Bạch Sính Đình mà không tiếc vứt bỏ thân huynh, hy sinh Đông Lâm.

Ai là nhân, ai là quả?

Đông Lâm vương ngồi trên vương vị, từ trên cao nhìn xuống đại điện, lặng lẽ uống thêm cốc nữa.

Cánh tay trắng nõn bỗng đưa ra, giữ chiếc cốc trong tay Đông Lâm vương.

“Đại vương…”, Vương hậu đứng một bên, hạ giọng khuyên, “Đại vương mau nghĩ cách ban vương lệnh thu hồi binh phù của Trấn Bắc vương”.

Đông Lâm vương quay lại nhìn ái thê đang lo lắng, cười khổ: “Chẳng lẽ không có binh phù, vương đệ không thể huy động binh mã nơi biên ải?”.

Năm đó, chỉ cần một lệnh của Sở Bắc Tiệp, tất cả binh mã tinh nhuệ của Đông Lâm đã không hề do dự mà tấn công thành đô, bao vây vương cung.

Có những người bẩm sinh đã mang ma lực hiệu triệu vạn quân.

“Nhưng cũng không thể khoanh tay đứng nhìn, Đại vương”, Vương hậu đau lòng, “Vì một Bạch Sính Đình mà vứt bỏ sự an nguy của cả quốc gia. Hành động này của Trấn Bắc vương khác gì hành động của kẻ điên? Vì tình riêng mà vứt bỏ vương tộc, sao Trấn Bắc vương có thể làm vậy?”.

Ánh mắt thâm trầm của Đông Lâm vương nhìn ra ngoài điện: “Đều đã làm rồi”.

Mặc kệ sinh tử, mặc kệ vương tộc, mặc kệ quốc gia.

Lần đầu tiên, Sở Bắc Tiệp vứt bỏ trách nhiệm đã được dạy dỗ từ khi chào đời, hăng hái tiến lên.

Chỉ vì một nữ nhân.

Một Bạch Sính Đình.

“Bắc Tiệp, Bắc Tiệp, đệ có còn là vương đệ vì Đông Lâm mà sẵn sàng hy sinh tất cả?” Đông Lâm vương chậm rãi đứng dậy, ngẩng lên nhìn trời xanh vô tận, cổ bỗng thấy ngứa, ho một tiếng, máu tươi nhuộm đỏ cả mấy chiếc bàn trước mặt.

“Đại vương!”, Vương hậu thất kinh, giọng gấp gáp, “Người đâu! Người đâu!”.

Thị vệ vội vã có mặt, thấy tình cảnh trước mắt đều vô cùng kinh hãi.

“Đại vương!”

“Đại vương bảo trọng!”

“Ngự y… Mau truyền ngự y!”



Mưa to gió lớn, sầm sập như lốc cuốn.

Vương cung cổ kính hùng vĩ của Đông Lâm vang lên những tiếng kêu khóc bi ai.

Trước vương vị là chiếc bàn đầy máu tươi. Đỏ như máu những thị vệ đã đổ nơi biệt viện ẩn cư, như máu nhỏ dưới lưỡi kiếm trên sa trường.

Quốc cùng gia, gia cùng nhân, ân oán chất chồng, cao như núi, dày như đất.

Bạch Sính Đình, ngươi có tài có đức gì?

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.