Trăng Đêm

Chương 7: Con người phản bội




Quyển 1 –

Bích triển kim diêu, hương đưa lộn xộn


Trú Phương Các nằm ở phía tây cấm cung Hằng Vĩnh. Hằng Vĩnh cung được thiết kế theo hình phụng hoàng dang cánh, hai bên cánh rất thoáng đãng, và sắp xếp theo dạng phần cánh đan nhau, tổng cộng có hơn 230 hécta, chia làm ba cung chủ chốt. Chính giữa là Hằng Vĩnh cấm cung, chiếm 96 hécta, là nơi hoàng gia cư trú. Phía tây là Thụy Ảnh Đài, rộng 64 hécta, là phiến cung của hoàng thức*, bên trong chủ yếu gồm hoa viên, hồ, sơn cảnh. Phía đông thiết kế 5 đài vuông, là nơi cúng tế hoàng gia, chiếm 64 hécta. Cả ba cung liên tiếp nhau, bên trong thông với nhau. Phía trong men theo cung cấm có tổng 64 hécta đất chính là nội hoàng thành, không xây nhà dân, tất cả đều là đất hoàng gia. Phía trước Hằng Vĩnh cấm cung gồm ba cửa chính Thụy Chính, Thụy Phương, Thụy Dương, thiết kế như cái đầu phụng.

Vào cổng Thụy Dương chính là vào bên trong cấm cung, qua cửa Thụy Dương, vào quãng trường Thập Chính của cấm cung, sau đó qua 9 chiếc cầu Bạch Ngọc Cửu Khổng, một cung điện ngay chính giữa, chính là trung thủ của cấm cung, là nơi hoàng gia tổ chức các đại tiệc. Sau đó đến Tường Thái Điện, Sùng Chính Điện, Hưng Hoa Điện. Ba cung điện này sắp theo thứ tự, hai bên thiết kế những hành lang cửu khúc, la liệt các điện phòng, gác lầu, chính là trung đình. Trung đình chia làm ba ngã. Ngã chính giữa có Tần Chính, Sùng Đức, hai tòa cung điện. Là nơi hoàng thượng thính chính và tiếp đón sứ giả. Cách nhau bằng vách tường đỏ, hai bên đều có những dãy hành lang dài, giữa các ngã hành lang, có hai vườn hoa nhỏ, phía đông là Thư Hoài, phía tây là Sướng Tâm. Khải Nguyên Điện nằm trong vườn Thư Hoài, các dãy hành lang tương phòng có thị vệ trực thuộc, chuyên trách sinh hoạt hằng ngày của hoàng thượng. Vườn Sướng Tâm không có phiến điện, phía sau chỉ có Văn Hoa Các, Hưng Hoa điện, là nơi hoàng thượng tiếp đón nội thị cận thần.

Phía nam của hai vườn đông tây, chính là nội đình, là nơi cánh phụng dang mở. Ở giữa là ngự hoa viên, hai bên có hai lối nhỏ thông nhau, có Trung Hoa, Ỷ Hoa, hai gác, và cũng có hai vườn nhỏ, vườn Trung Đô nằm trong Trung Hoa Các, vườn Kỳ Ngưng nằm trong Kỳ Hoa Các. Phía trước nối liền trung đình chính là nơi ở của hoàng thượng – Càn Nguyên Cung, và nơi ở hoàng hậu– Trú Tâm Cung.

Tiếp đó là hai đường lớn, hai đường đều chia hướng đông tây, đông đây lại có hoa viên hai bên, các cung phòng bố trí theo như cánh phụng, chính giữa nơi đôi cánh dang rộng có vách tường ngăn cách, có dãy hành lang, và các cảnh sắc khác. Đoạn đuôi cuối cùng là Hậu Ngự Viên, liên kết với kênh bên trong, ở đây khác với tiền viện chỉ có một hồ nhỏ, hậu viện có một hồ to có thể bơi thuyền, gọi là Thanh Dao Trì, dựng cảnh sơn núi, tách ao hồ thành hai bên. Thọ Xuân Cung ôm trọn một hồ, bức vách ngăn lại, là chỗ ở của thái hậu, thái phi.

Trú Phương Các nằm ở giữa phía tây, có nước suối đến từ Thanh Dao Trì của hậu viện, là nơi thanh tĩnh, vắng lặng. Tuy đất của cung này không bằng Cúc Tuệ Cung của Phi Tâm, nhưng ưu thế ở chỗ cảnh sắc tuyệt đẹp. Hậu viện có suối nhỏ, hàng trú, và còn có một góc nhỏ do Linh Tần dụng tâm thiết kế, nằm ở góc trong cùng của cung điện, mang phong cách thảo nguyên. Linh Tần tự cho xây thêm các thung lũng hoa, các loài cúc đang tranh sắc, cành nào cũng cao 3–4 thước, đung đưa trước gió, sắc màu tràn ngập. Phi Tâm nhìn qua, thấy có cả thảy 20 – 30 chủng loại: Đa Bảo Tháp, Phá Kim, Ngọc Đường Mã, Huỳnh Oanh Thúy,….khiến cô có ảo giác mình đang ở giữa biển hoa, thật sự mở rộng tầm mình. Hoa cúc tựa nhau khoe sắc, muôn màu muôn vẻ, có cánh hoa thì nở rộ, có cánh vẫn còn cúp lại, có đóa dạng như tháp sen, có đóa dạng tú cầu, có những loại tia tia như hạt mưa rơi…Cúc ở đây có cúc nở sớm, nở ban đêm, cúc màu lạnh, mùa nóng, đừng nói có thể nở trái mùa, ngay cả ngự quan trồng hoa của hoàng cung cũng khó có thể trồng những giống này đúng mùa. Linh Tần này quả không đơn giản!

Phi Tâm nhìn cô khoác tay hoàng thượng, nét mặt đắc ý, người đẹp hơn hoa, trong chốc lát, bỗng cảm thấy mình thật thừa thãi ở nơi này. Nhưng lúc ấy cô chẳng dám bỏ đi, chỉ biết đứng sững trong biển hoa, thẫn thờ nhìn một cành mẫu đơn xanh. Lục mẫu đơn này chứa sắc vàng hòa lẫn sắc xanh, như thể hài hòa giữa sắc vàng – xanh, cánh hoa cuộn tầng, nhụy hoa tựa hoa hướng dương, quả là mẫu đơn kiều diễm.

Linh Tần vừa lo thân cận Tuyên Bình Đế, nhưng cũng không quên Phi Tâm, cũng chẳng phải cô ta cố tình ra vẻ trước mặt Phi Tâm, chỉ là a đầu này rõ ràng cao tay hơn Đức Phi nhiều, mắt biết quan sát tứ phía, tai biết lắng nghe xung quanh. Cô ta thấy Phi Tâm nhìn mãi cành hoa, bèn cười nói: “Nương nương nếu thích hoa nào, thần thiếp sai người dời một chậu sang Cúc Tuệ Cung? “

Phi Tâm hơi sửng người, cười nhạt: “Cảnh sắc thế này, cứ đặt đây thì sẽ hài hòa hơn.”

Linh Tần cũng chỉ tùy tiện hỏi, thấy cô ấy chẳng nói năng nhiều, đành khoát nắm chặt tay Vân Hi: “Hoàng thượng, Xích Tuyến Kim Châu này thần thiếp thích nhất, hay là cài lên giúp thần thiếp nhé? “

Phi Tâm cứ luôn cảm thấy, dù là Linh Thần, hay Đức Phi, ai cũng có cách chung sống với hoàng thượng tốt hơn cô. Khi Đức Phi vẫn chỉ là Uyển Tân, cùng hoàng thượng vẽ tranh bên hồ, cảnh tượng ấy Phi Tâm tới nay vẫn khó quên, chỉ cảm thấy họ tình ý nồng hậu. Hoàng thượng là tình thật hay ý giả cũng không quan trọng, ít ra cũng khiến người khác nhìn vào thấy ấm lòng. Hôm nay cũng vậy. Ngược lại, giữa cô và hoàng thượng, dường như rất khó có đề tài, dù cô có nói gì, y cũng thấy bực tức, ánh mắt đầy băng giá. Y càng như thế, cô càng hồi hộp, hình như ngoại trừ chuyện ấy, giữa họ vốn chẳng có gì để nói.

Cô lén nhìn hai người đó, lúc này Tuyên Bình Đế vẫn nở nụ cười nhàn nhạt. Khi nụ cười ấm áp hé nở, luôn có một luồng sắc màu vây quanh, khiến người ta rung động.

Vân Hi khẽ cười, chẳng đáp lại cô ta, chỉ nhìn hoa và nói: “Trẫm thì lại thấy nên dời vài chậu sang Cúc Tuệ Cung của Quý Phi. Kim bích huy hoàng nhưng lại thiếu sinh khí!”

Phi Tâm không ngờ y lại chuyển đề tài này, nhưng lời châm chọc của y Phi Tâm nghe rất rõ. Cúc Tuệ Cung thiết kế theo sở thích Tuệ Phi quá cố, trong hậu cung, đó tuyệt đối là cung điện xa xỉ nhất, xem ra y vẫn không thích điều đó. Nhưng như thế cũng hay, cô không cần phải bày vẽ thêm, có thể tiết kiệm một số chi tiêu không cần thiết, nhưng lời nói đằng sau của y khiến Phi Tâm hơi băn khoăn, ý y là muốn nói cô ũ rũ không sinh khí. Thực ra không phải cô cố ý tỏ ra đoan trang, nhưng trong lòng cô, đoan trang là tiêu chuẩn hàng đầu của nữ nhi.

Linh Tần thấy hoàng thượng đã nói thế, bèn hùa theo: “Vậy thần thiếp sẽ cho dời chậu Lục Mẫu Đơn này sang đó nhé? “

Phi Tâm không dám nhiều lời, chỉ cười nhạt đáp lại. Linh Tần thấy tâm trạng hoàng thượng đang tốt, định mời y vào trong uống trà, vẫn chưa mở lời, y đã đi tới bên Phi Tâm: “Trẫm phải về Khải Nguyên Điện rồi, Quý Phi không hồi cung à? “

Phi Tâm ngớ người, vội trả lời: ” Thần thiếp cũng phải về Cúc Tuệ Cung, thần thiếp cung tiễn….” Cô chưa dứt lời, Vân Hi đã tiến lên trước: “Vậy cùng đường, ta đi chung.”

Phi Tâm nghe thế, không dám nói gì, nhìn y bước ra ngoài, vội vã đi theo, để lại Linh Tần một mình sửng sốt giữa nhà hoa, vẫn chưa định thần trở lại.

Họ dùng kiệu lúc nãy đi từ Khải Nguyên Điện tới, xuyên tây qua đông. Phi Tâm nhìn y không đi hướng nam, mà còn đi thẳng vòng sang hướng đông, rõ ràng muốn đến Cúc Tuệ Cung. Còn ở tiền điện Cúc Tuệ Cung, Tú Linh, Tú Thể và Tiểu Phúc Tử cùng Tiểu An Tử nhận được thư của thái giám dẫn đường, nên đã quỳ trước chờ sẵn. Vân Hi xuống kiệu, bước chân thẳng tiến vào trong thẩm điện. Phi Tâm thấy thế, trong lòng lo sợ, không hiểu sao lại nghĩ ngay đến sở thích kỳ quặc của y.

Trong lòng cô sợ hãi, ngoài mặt lại càng hoảng hốt, vội vào trong, hầu hạ y rửa tay, súc miệng, vì căng thẳng, động tác của cô hơi cứng nhắc. Chỉ vì giữa họ luôn ngượng ngùng, nói chưa đầy ba câu y đã trở mặt, Phi Tâm thì không tìm ra đề tài để làm dịu bầu không khí ấy, chỉ biết cặm cụi làm tốt việc mình. Nhưng công việc cũng phải có lúc làm xong, y lười nhác nằm nhoài xuống giường, Phi Tâm dù đang cúi đầu cũng cảm nhận được ánh mắt sắc như lưỡi đao của y. Cô không bao giờ dám nhìn thẳng y, dù có lúc bất cẩn ánh mắt chạm nhau, cô cũng sẽ vội vàng né tránh. Lúc ấy đầu óc cô lùng bùng, chỉ muốn tìm lý do gì đó để y đừng quá nhanh chóng bước vào phân đoạn khiến cô khủng hoảng cực độ. Ít nhất cũng cho cô một ít thời gian, để cô cho kẻ dưới lùi ra, kể từ khi bị bẽ mặt đêm 30, Phi Tâm đã muốn chết quách cho xong.

“Có thật là nàng không biết múa? ” Y nằm gác một chân lên. Cuối cùng đã phá vỡ bầu không khí ngượng ngập vô cùng này.

“Bẩm hoàng thượng. ” Phi Tâm vừa nói vừa quỳ xuống, “Thần thiếp hôm đó đã thất lễ, thần thiếp không dám giấu hoàng thượng, trước khi vào cung, thần thiếp đã học múa trống một năm tại nhà. “

Tú nữ vào cung, đều phải là con nhà quan gia ngũ phẩm, phàm quan ngũ phẩm sinh con gái đều được kỷ lục* vào án quan phủ, không được tự ý phối hôn, chỉ chờ sau khi rớt tuyển mới được phối hôn. Chức quan phụ thân mua về không đủ ngũ phẩm, là do phụ thân hoạt động nhiều mặt, bám víu khắp nơi, mới có được một vị trí ứng tuyển cho cô. Khi ấy Hoài Châu chỉ được hai người, cô đã biết rằng hai năm sau sẽ phải vào kinh dự tuyển, cha mẹ từ lúc ấy cũng bắt đầu lo việc.

Từ bé những cô được học trong thâm khuê đều là nữ kinh hiếu kinh, công dung ngôn hạnh, những thứ phong hoa thi tính cô đều rất ít đụng đến. Thi ca, đừng nói đến nữ nhi, dù đối với nam nhi nó cũng là một công việc không chính đáng, vì cô phải vào cung, nên mới bắt đầu học thơ ca vũ đạo. Những thứ này, chỉ là thủ đoạn mưu sinh của tầng lớp thấp hèn, phường ca múa cũng chỉ là nơi đầy mê hoặc nhằm phục vụ sở thích của kẻ quyền quý, hoa khôi đa tài, vốn luôn bị thế nhân khinh khi.

Nếu không vì cha mẹ yêu cầu, cô tuyệt đối không dính dáng tới những thứ này. Nhưng Phi Tâm quen nghe lệnh cha mẹ, cha mẹ đã nói phải chuẩn bị để vào cung, cô đành cố hết sức, làm thật tốt. Khi ấy cha mời một đoàn ca múa nổi tiếng của Hoài Nam, dạy cô múa trống. Cô chỉ học một năm, vì học muộn, phải chịu đau đớn hơn người khác, dù là kéo gân, thăng bằng, thi triển động tác, đều phải đổi bằng nổi đau thấu da thịt, xương cốt của cô.

Nhưng sau khi vào cung, cô không hề lấy nó để tranh sủng. Thực ra thứ nhất là vì gia thế, cô biết trách nhiệm mình phải gánh vác nên tuyệt nhiên không muốn để người khác khinh miệt dù chỉ một tí. Thứ hai, cô được thái hậu đề bạt, mục đích là lấy dung nhan Tuệ Phi kiềm chế hoàng thượng, Tuệ Phi không biết múa hát, cô cũng không phải làm thế. Thứ ba, từ sau khi cô vào cung vẫn luôn là tai mắt của thái hậu, nghe răm rắp lời thái hậu, thái hậu ghét nhất là những kẻ mê hoặc hoàng thượng, cô tất phải tuân thủ. Thời gian lâu dần, trở thành thói quen rồi. Nên giờ có bắt cô nhảy, cô cũng chẳng thể nhảy được phong thái khi xưa.

Y nghe rồi không nói gì, chỉ khẽ nói: “Đứng dậy đi, Quý Phi vào cung 3 năm, chắc tài nghệ cũng mai một rồi, chẳng khác nào không biết.”

Cô nghe xong chợt cảm kích muôn phần, cảm kích y không bắt cô phải thi triển vũ nghệ, không để cô phải xấu mặt trước bọn nô tài. Y co người: “Trẫm nghỉ một lát, một canh giờ sau gọi trẫm dậy.”

Cô đứng lên, vội sang đắp chăn cho y. Đang chuẩn bị kéo màn xuống, y khẽ giọng: “Đừng che ánh sáng, trẫm nằm một lát thôi.”

“Vậy hoàng thượng nghỉ ngơi, thần thiếp chờ bên ngoài.” Cô nói xong, từ từ lùi hai bước, sai người thả rèm thủy tinh, chỉ để Uông Thành Hải lại bên cạnh hầu hạ, mình bước xuống bàn trang điểm, ngồi xuống ghế, thở phào nhẹ nhõm.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.