Thiết Thư Trúc Kiếm

Chương 7




Rời khỏi Tử Cấm Thành, trước tiên Dương Lăng trở về Nội xưởng để hỏi thăm về tình hình phát triển của Nội xưởng trong thời gian rời kinh. Ba vị đáng đầu là Ngô Kiệt, Hoàng Kỳ Dận, Vu Vinh nghe nói Dương Lăng được phong hầu tước, thăng quan tới chức Long Hổ Thượng tướng quân đều vô cùng vui mừng. Cả ba chúc mừng một lúc rồi mới lần lượt bẩm báo tình hình phát triển của Nội xưởng hiện tại.

Mạng lưới tình báo của Nội xưởng đã mở rộng khắp tất cả vùng đất của Đại Minh. Bọn họ tự mở ra lối đi riêng, cho nên công tác thu thập thông tin của mạng lưới tình báo không xung đột gì với Đông xưởng, Tây Xưởng, Cẩm Y vệ. Bởi vậy, về phương diện này, Nội xưởng phát triển cực nhanh và phát huy hiệu quả cũng rất nhanh. Hiện nay bộ phận ”Thần báo tin” (bộ phận tình báo) của Dương Lăng đã vượt lên trước, trở thành ban ngành có hiệu suất cao nhất trong các xưởng vệ.

Bẩm sinh Vu Vĩnh đã có bộ óc của một thương gia, hắn mà buôn bán thì không sợ bị người khác chiếm được chỗ tốt. Nội xưởng có phương thức kinh doanh giống như công ty cổ phần, tuân theo tôn chỉ “điều lợi mọi người đều có phần”, chẳng những không đắc tội với những tập đoàn cường hào hiện có ở địa phương mà còn lôi kéo được bọn họ vào chung thuyền. Tấn thương (thương nhân Sơn Tây), Huy thương (thương nhân An Huy), Cam Thiểm Mã bang (đoàn ngựa thồ Cam Túc-Thiểm Tây), sĩ tộc Giang Nam, thậm chí cả huân thần công khanh trong kinh sư cũng không ngừng gia nhập. Phương châm nếu thiệt hại thì cùng thiệt hại, nếu hưng thịnh thì cùng hưng thịnh của bọn họ đã loáng thoáng tạo nên một thế lực ngầm rất hùng mạnh.

Ví như có việc cần, thế lực này có thể thu thập hơn mười vạn lượng bạc trắng chỉ trong một đêm, hoặc tác động tới chính sách của triều đình chỉ trong một bữa thù tạc. Theo cách nhìn của rất nhiều quan viên địa phương, sức mạnh của nó xem ra không nổi bật lắm, nhưng với phương thức mưa dầm thấm lâu, nó đang nhanh chóng thẩm thấu lực lượng tới các tầng lớp thượng tầng như giới chính trị, sĩ tộc, thương giới…của Đại Minh. Người ngoài có thể không cảm giác rõ, nhưng mấy vị Đáng đầu ở trong Nội xưởng lại biết rõ sức mạnh này khổng lồ đến cỡ nào.

Dương Lăng muốn thực hiện hoài bão của mình trên chính trường, nhất định phải có chủ trương chính trị của riêng mình. Hoàng đế có thể cho hắn quyền lực, nhưng quyền lực này có thể thật sự phát huy tác dụng, có thể xảy ra đùn đẩy, cãi vã, nói một đằng làm một nẻo giữa trên dưới và đồng cấp hay không, đều phải dựa vào sự phối hợp và phục tùng của các tầng lớp sĩ nông công thương. Bây giờ Nội xưởng đang lôi kéo rất hiệu quả những tinh anh và lãnh tụ các tầng lớp này lên chung con thuyền của mình.

Tạm thời việc nghiên cứu súng kíp của Hoả Giả Á Tam đang bế tắt, vẫn không thể nắm bắt được mấu chốt quan trọng để tiến thêm một bước nữa. Mắt thấy nhà thờ lớn sắp xây xong, các giáo sĩ lại nóng lòng nên cả ngày bọn họ đều chạy tới nhà thờ tra xét tiến độ công trình. Tam đáng đầu Phùng Đường phụ trách nghiên cứu súng kíp không đạt được thành tích gì lớn, cho nên rất bực với chuyện này. Gặp mặt Dương Lăng, hắn ta không khỏi có chút xấu hổ.

Dương Lăng biết rõ cho dù là thời hiện đại, ngay cả ở những tập đoàn, công ty lớn, nơi các ngành học chuyên môn được phát triển cực kỳ đầy đủ mà muốn phát minh một thứ vũ khí mới, đánh hạ được một cửa ải kỹ thuật khó đều phải tiêu phí mất mấy năm. Đây gọi là dục tốc bất đạt, y cũng không mong mỏi vào thời gian hai ba tháng mà có thể sáng chế được súng kíp kiểu mới, cho nên lại an ủi hắn ta mấy câu.

Hôm nay Thiểm Tây Bố Chánh Sứ Ty đã bắt đầu chuẩn bị mọi mặt để trồng thử khoai lang và ngô. Mặc dù trong thâm tâm, Lưu Cẩn đã nảy sinh oán hờn việc Dương Lăng chắn ngang trên con đường quyền lực của lão ta, thế nhưng quan niệm quê cha đất tổ của lão rất nặng. Dù sao Nội xưởng cũng đã xuất bạc ra bảo đảm sẽ không để cho Thiểm Tây gặp phải một năm mất mùa, đói kém. Nếu như những cây trồng này thực sự có hiệu quả, đó sẽ là một công đức vô cùng to lớn hướng về quê hướng phụ lão, cho nên lão ta rất để tâm tới chuyện này, lúc nào cũng quan tâm tới chuyện Thiểm Tây trồng thử lương thực. Khi Nội xưởng bắt đầu vận chuyển cây giống và nông gia đến Thiểm Tây giảng dạy phương cách canh tác, Lưu Cẩn càng thêm hết sức hợp tác.

Mẫn Văn Kiến đã thăng chức Đô chỉ huy sứ ti thiêm sự của Giang Nam đạo. Ở Giang Nam có hai viên Đô chỉ huy sứ ti thiêm sự. Một vị phụ trách luyện binh, gọi là Chưởng ấn; một người phụ trách đồn điền, gọi là Thiêm thư. Mẫn Văn Kiến hiện là quan Thiêm thư của Giang Nam đạo, phụ trách toàn bộ công việc đồn điền trong quân đội của vùng đất đầy cá và gạo này.

Cũng không thành thạo công tác đương nhiệm bao nhiêu, nhưng lão rất tôn sùng bản lĩnh của Dương Lăng. Lão không hiểu và cũng không biết gì về đồn điền, nhưng lại biết nghiêm cẩn dựa theo lời nhắn nhủ của Dương Lăng để làm việc. Lão cho thay thế lúa ở toàn bộ đất đai cằn cỗi trong quân bằng giống cây trồng mới, lại ra lệnh cho binh sĩ khai thác thêm rất nhiều đất sản xuất vốn không thích nghi với các giống hoa màu cũ; có thể nói là dốc hết sức lực cho công việc.

Chúc Chi Sơn ở Đào Nguyên cũng đã mở rộng việc trồng trọt những giống mới, trước tiên hắn chuẩn bị trồng thử một năm hai giống. Chỉ có điều địa phương của hắn quá nhỏ mà thanh thế cũng kém xa Thiểm Tây và đạo Giang Nam.

Dương Lăng nghe xong, trong lòng cực kỳ vui sướng. Xem tình hình hiện nay, thì chính ngay tại kinh sư này có độ biến đổi là bé nhất. Có thể là dưới chân thiên tử không giống như những nơi khác, trong lòng văn võ bá quan đều có điều nghi kị, đích thực là tình hình không thích hợp để giống trống khua chiêng quá mức. Bằng không thì dựa vào sức lao động của mấy ngàn trai tráng Nội xưởng, muốn trồng trọt trên những đồng ruộng này còn không dễ như trở bàn tay hay sao?

Điều Dương Lăng lo lắng chính là nếu hơn một ngàn hộ tá điền không có việc làm thì không khỏi xảy ra nổi loạn. Cũng may trước khi đi, Thành Khởi Vận đã sắp xếp cực kỳ thỏa đáng với những tá điền ở những ruộng đất được cô ta mua. Hiện nay, những tá điền đó không hề náo loạn, đều an phận nhận giống lương thực mới, tuân thủ phương pháp trồng trọt được những chuyên gia hướng dẫn.

Nghe xong những lời giới thiệu này, Dương Lăng gật đầu thỏa mãn bảo với Ngô Kiệt:

- Bổn quan hôm nay thăng quan tấn tước, đúng là bộc lộ tài năng, ha ha, đồng thời cũng là mục tiêu công kích của mọi người đó. Việc trình tấu khuyên ngăn hủy bỏ lệnh cấm biển càng phải thận trọng hơn nữa. Danh sách mà bản quan yêu cầu lão Ngô chuẩn bị trước khi hồi kinh đã như thế nào rồi?

Ngô Kiệt mỉm cười đáp:

- Ty chức với Hoàng đại nhân cũng đang lo lắng đại nhân thăng quan tiến chức thuận lợi lại lơ là cảnh giác. Nghe xong câu “mục tiêu công kích của mọi người”, biết được đại nhân đã có suy tính sẵn, chúng ti chức mới an lòng.

Hắn nhẹ nhàng lấy một tờ giấy từ trong tay áo ra, rụt rè nói tiếp:

- Đại nhân, danh sách này là danh sách quan viên thân hào đại tộc có liên quan mật thiết với việc buôn lậu vùng duyên hải, tổng cộng là bảy mươi sáu người, trong số đó có hai mươi chín người có tiếng nói ở trong triều.

Những người như vậy trong mắt lúc nào cũng chỉ thấy chữ “tiền”, chẳng có khí phách gì. Chúng ta lấy oai thị uy, lấy lợi dụ dỗ, không sợ không khiến bọn họ cúi đầu trước chúng ta. Hai mươi chín vị quan này đều đã đồng ý nếu có người dâng tấu chương can gián, xin hủy bỏ lệnh cấm biển thì cũng sẽ dâng tấu chương ủng hộ. Xin đại nhân xem qua!

Dương Lăng vui vẻ đón nhận. Y đọc kỹ một lượt, sàng lọc ra hai mươi chín ngươi từ ngũ phẩm tới tam phẩm, thứ bậc không đồng nhất, có quan viên lục bộ, cũng có Hàn Lâm viện, Xuân phường, ngôn quan Ngự sử đài, chỉ là không có quan viên nào đang nắm giữ quyền hành lớn trong triều.

Y khẽ thở dài, suy nghĩ một lúc rồi mới chầm chậm nói:

- Lục bộ cửu khanh, nội các Đại học sĩ trong triều, nhiều người lo nghĩ. Hoặc họ không yên tâm về việc nội quan phát triển quyền lực mạnh mẽ, e rằng không thể khống chế; hoặc họ lo lắng việc xây dựng lại thủy quân, binh quyền sẽ được trao nhiều hơn khiến cho đuôi to khó vẫy, dẫn tới tai họa. Những người này bổn quan đều có biện pháp ứng đối, nên không cần phải lo ngại.

Tuy công thần huân khanh, vương hầu sĩ tộc không cầm quyền nhưng lực ánh hưởng của bọn họ ở trong triểu cũng không thể xem thường. Hôm nay, kéo được phân nửa bọn họ tham gia vào công việc làm ăn của Nội xưởng, ta cho rằng lúc bổn quan đề xuất giải trừ lệnh cấm biển, bọn họ sẽ không cản trở.

Nhớ tới trải nghiệm của mình, Hoàng Kỳ Dận cực kì tán thành. Ông cảm khái:

- Đúng rồi! Chuyện lớn như thế này thì không được lỗ mãng! Cần phải thong thả bố trí, mưu tính cẩn thận rồi mới hành động. Bây giờ mà không suy nghĩ chu đáo, chuẩn bị đầy đủ, đợi tới khi ra giữa triều đình ban bố chính kiến thì đã là thời điểm quyết chiến cuối cùng. Khi đó mới nghĩ tới việc ứng đối thì đã muộn, chỉ sơ sẩy một tí sẽ bị đánh rơi khỏi chín tầng trời, từ nay về sau khó mà trở mình dậy nổi.

Ngô Kiệt đồng tình:

- Ừ, góp gió thành bão, phải nên làm như thế! Chẳng qua là trong triều còn có một bộ phận quan viên nắm giữ quyền hành, có tầm nhìn hạn hẹp không thể nhìn xa trông rộng; còn có rất nhiều kẻ vốn là thân hào nhân sĩ xuất thân từ nội địa bình nguyên, lo lắng việc mở biển bỏ lệnh cấm sẽ ảnh hưởng tới lợi ích của gia tộc bọn họ; còn có rất nhiều kẻ cổ hủ đần độn, khăng khăng giữ lấy nếp thiên triều thượng quốc chỉ nhận triều cống. Muốn bọn họ gật đầu có phần khó khăn.

Bành Kế Tổ không đồng ý, phản bác:

- Có phải hai vị đại nhân lo lắng quá mức rồi hay không? Hoàng Thượng tin yêu Xưởng đốc đại nhân của chúng ta hơn bất kỳ ai. Chỉ cần Hoàng Thượng gật đầu, bọn chúng đồng ý cũng phải đồng ý, không đồng ý cũng phải đồng ý, để ý đến bọn họ làm gì?

Dương Lăng lắc đầu:

- Trong triều không giống như trong quân, quân lệnh ban xuống hoàn toàn không có chỗ thương lượng. Thế nhưng, những đại thần này đều là thủ lĩnh của những thế lực nào đó, có bọn họ dẫn đầu phản đối, tất nhiên sẽ có khá nhiều quan viên ra tay cản trở theo. Dù là Hoàng Thượng cũng không có cách gì cứ cương cường hạ chiếu khi quần thần phản đối kịch liệt.

Như có điều suy nghĩ trong chốc lát, bên môi nhếch một nụ cười, y xoay người hỏi Ngô Kiệt:

- Ngô lão có thể soạn một danh sách về những người này không?

Ngô Kiệt vội vàng móc ra một tờ giấy từ tay áo trái, đáp:

- Ty chức đã có chuẩn bị từ lâu. Qua đánh giá, các quan viên tương đối có uy danh trong giới quan văn, với lại cực kỳ có khả năng dẫn đầu phản đối kế sách mở biển của đại nhân đều được ghi ở trong tờ giấy này.

Dương Lăng tiếp nhận, nói:

- Để bản quan quan sát những người này xem sao. Xem ra việc này vẫn phải nhờ cậy vào Tiêu đại học sĩ rồi.

Dương Lăng vừa mới nói xong, một người đột nhiên xuất hiện ở cạnh cửa, cất giọng cung kính:

- Xưởng đốc đại nhân! Nội các Tiêu đại học sĩ mời đại nhân qua phủ một chuyến.

Dương Lăng cười ha hả tiện tay đút tờ giấy vào trong tay áo, đứng lên nói:

- Đúng là vừa nhắc tới Tào Tháo là Tào Tháo tới ngay! Người đâu, chuẩn bị ngựa! Bổn quan phải tới Tiêu phủ ngay lập tức!

* * *

Trong từ đường ở hậu viện Tiêu gia, Tiêu Phương đang dâng hương bài vị tổ tiên, dập đầu cúi lậy, im lặng khấn bái rất lâu. Con trai của hắn là Tiêu Hoàng cũng dập đầu dâng hương theo cha rồi bước lên dìu cha đứng dậy.

Tiêu Hoàng là con trai nhỏ nhất của Tiêu Phương, năm nay vừa mới hai mươi tám. Lão Tiêu Phương sinh được năm con trai. Con cả,con thứ ba,con thứ tư đã mất sớm, bây giờ chỉ còn hai đứa con trai. Con thứ Tiêu Thụy đang là Phán quan của châu Vũ Định, tỉnh Sơn Đông. Tiêu Hoàng mới vừa vào làm Kiểm thảo quan trong Hàn Lâm Viên.

Tiêu Hoàng dìu Tiêu Phương dậy, nói:

- Phụ thân! Dương Lăng lại được đề bạt, thực sự là được Hoàng thương ân sủng tột đỉnh, nhưng mà cứng quá dễ gẫy. Con ở trong Hàn Lâm viện biết có rất nhiều quan viên bất mãn với y. Hôm nay Dương Lăng nắm giữ binh quyền, tài quyền (quyền kinh tế), quyền đôn đốc bách quan, giống như mặt trời ban trưa chạm tay vào có thể bị bỏng, khiến cho văn võ toàn triều đều liếc nhìn. Bây giờ y chính là mục tiêu để mọi người công kích.

Con cho rằng phụ thân không nên đắc tội với Dương Lăng, thế nhưng cũng không nên thân cận với y quá. Hôm qua phụ thân đã từ chối lễ vật của nội tướng Lưu công, hôm nay lại mở tiệc chiêu đãi Dương Lăng, có thể đây là tuyên bố muốn đứng ở bên cạnh y. Nhi tử chỉ sợ phụ thân đắc tội với Lưu công và văn võ bá quan trong triều. Một cây khó chống vững nhà. Đến lúc đó, trong tên ngoài giáo, chúng ta sẽ khó lòng phòng bị.

Tiêu Phương cười ha ha, vuốt râu nhìn hắn, khẽ lắc đầu nói:

- Con à, ánh mắt của con còn non lắm! Lưng tựa cây lớn hóng gió mát, cha muốn chọn một cây lớn để dựa vào cả đời, hai con mắt già của cha không hề nhìn lầm. Dương đại nhân là một người đáng để dựa vào.

Lão nhìn khói hương lượn lờ trước bài vị tổ tiên trên bàn thờ, thở dài nói tiếp:

- Nhà chúng ta đã bốn đời làm quan. Cụ cố Nhân Công của con làm quan tới chức giáo thụ phủ Hàn Vương, sau khi mất được truy tặng Quang Lộc đại phu, Trụ Quốc thái tử thái bảo, Lại bộ thượng thư kiêm Đại học sĩ Vũ Anh điện; bà cố được phong tặng là nhất phẩm Cáo Mệnh phu nhân. Ông nội Cảnh Hòa công của con, làm quan tới biên tu Hàn lâm viện, sau khi chết hưởng lộc, chức quan giống như cụ cố của con.

Đến đời của cha ngươi..., - Tiêu Phương để cho con dìu ra bên ngoài, ngồi xuống, tiếp tục -Bây giờ đang lúc còn sống, đã là quan nhất phẩm triều đình, vinh dự được làm Đại học sĩ, tấn phong Tả trụ quốc. Con à, con nói đây là nhờ người nào ban cho?

Mặt Tiêu Hoàng đỏ lên, ngập ngừng:

- Vâng, con hiểu rồi. Nhưng mà hoạn lộ gập ghềnh, quan trường hiểm ác. Con chỉ cảm thấy Dương đại nhân...mới tuổi trẻ đã bộc lộ tài năng, thật sự không giống như điềm lành.

Tiêu Phương vung tay, liếc mắt nói:

- Điều này, cha nhìn thấy được. - Ông nhẹ nhàng vuốt chòm râu bạc trắng, trầm ngâm - Cha con đỗ bảng nhãn năm Thiên Thuận thứ tám. Thế nhưng nhậm chức biên tu chín năm trong Hàn lâm viện, trước sau vẫn không được lên chức. Năm Thành Hóa thứ hai, vì sửa lại án oan cho Vu Khiêm đại nhân, cha con chủ trì viết văn tế, nhất thời chấn động trong triều ngoài ngõ, hoàng đế Hiến Tông rất là tán thưởng. Vốn cha có cơ hội lên chức, thế nhưng đang lúc bè đảng gian thần Bành Thời, Vạn An nắm quyền, cha bị bọn chúng tìm cớ đuổi khỏi triều đình.

Ái chà! Quan trường chìm nổi, nhiều phen thăng trầm, ta thật vất vả mới trở lại được trong triều. Lưu Kiện, Tạ Thiên, những kẻ được gọi là quân tử thanh cao đó, cũng lại kết đảng đồng hương, chèn ép ta! Đám người Giang Tây như Vạn An, Bành Thời, Tạ Thiên... đều đố kị người tài, không tên nào tốt.

Những kẻ mà cả đời Tiêu Phương gây thù chuốc oán phần lớn là người Giang Tây. Những vị quan này hết lần này tới lần khác đều chức to hơn lão, chèn ép lão đến không ngẩng đầu lên được. Lão Tiêu Phương năm nay đã ngoài thất tuần, thế nhưng khi nhắc tới người Giang Tây lại vẫn nổi trận lôi đình.

Tiêu Hoàng thấy lão tức giận tới mức đỏ bừng cả mặt, thở ra nặng nề, vội vàng vuốt lưng nhè nhẹ, can:

- Phụ thân bớt giận.

Tiêu Phương thở hổn hển mấy hơi, nói tiếp:

- Đương kim Hoàng thương tuổi còn nhỏ. Người tin tưởng chỉ có Dương đại nhân, Lưu công công, đều là những cựu thần trong phủ lúc ngài còn là thái tử. Cha ngươi vốn còn có thể thuận lợi mọi bề, nhưng hôm nay bọn họ ngang hàng, không có người nào chịu khuất phục dưới trướng kẻ khác, sớm muộn gì cũng có xung đột. Nếu như ta đoán không sai, hôm qua Dương đại nhân tấn chức hầu tước, nắm giữ quân quyền, nhất định là Lưu công công lấy lui làm tiến, giành quyền động thủ đầu tiên!

Lưu công công là người chỉ có thể cùng chung phú quý, không thể cùng chung hoạn nạn, cũng không phải là chỗ dựa tốt nhất. Mà Dương đại nhân biết dùng người, phẩm tính nhân hậu, cha chỉ có thể lựa chọn đứng ở bên cạnh y. Muốn có chỗ đứng trong nội các, muốn bảo vệ phúc ấm Tiêu gia mãi mãi, con cho rằng dễ lắm hay sao?

Tiêu Hoàng ngập ngừng hỏi:

- Dương đại nhân có thể đứng vững không?

Tiêu Phương khẽ cười, đáp:

- Có thể! Khi Vương Quỳnh, Phạm Đình bị diệt trừ, Dương đại nhân dưỡng thương hơn một tháng liền chắp tay nhường ti Lễ Giám và Đông xưởng cho Lưu Cẩn. Từ lúc đó, cha liền biết người này khí độ rộng lượng, ánh mắt sâu xa, ít người sánh kịp.

Hàng lông mi trắng giần giật, lão nói tiếp:

- Hôm nay cha mở tiệc chiêu đãi Dương đại nhân chính là muốn biết y lại định nhường cái gì, định nhường bao nhiêu. Trước khác nay khác. Có nhiều thứ… bây giờ không thể nhường được nữa rồi!

* * *

Trong căn gác trang nhã thuộc nội sảnh Tiêu Gia, Dương Lăng và Tiêu Phương cùng ngồi đối ẩm.

Hai người đều nói về tình hình kinh sư sau khi Hàng thượng rời khỏi Đại Đồng. Dương Lăng biết chắc chắn Tiêu Phương còn có điều khác muốn nói, bởi vậy y cũng dằn lòng không hỏi. Hai người nói chuyện phiếm một lúc lâu, Tiêu Phương nhấc bình lại rót cho Dương Lăng một ly, hỏi:

- Lần này đại nhân đã lập nhiều công lao to lớn. Triều hội hôm nay được Hoàng Thương ban thưởng, đại nhân được phong chức hầu tước, lại nắm giữ quan binh bốn trấn, thật sự là đáng mừng.

- Ah? - Dương Lăng liếc nhìn Tiêu Phương, bình tĩnh - Ha ha, quan viên văn võ của Đại Minh ta hết lòng hết sức phụ tá Hoàng Thượng, bề tôi công cao vất vả có ai từng nhận được trọng thưởng như thế? Hoàng Thượng ban thưởng cho bản quan như vậy, ân vua sâu nặng, bổn quan đều khắc sâu trong ngũ tạng. Thế nhưng, phúc đi kèm với họa đấy! Ban thưởng lớn như thế thật khiến cho văn võ bá quan lườm nguýt, lòng ta thật sự rất sợ hãi. Bổn quan đang tính tìm cơ hội tâu với Hoàng Thượng, khéo léo từ chối bớt phần thưởng đây.

Trong mắt hiện lên ánh vui vẻ, Tiêu Phương liền vội hỏi:

- Đại nhân đức độ cao, lại rất mực khiêm tốn! Tấm lòng đó khiến cho môn hạ khâm phục không thôi. Chỉ là bây giờ đại nhân nắm giữ quyền đôn đốc bách quan, quyền trưng thu thuế của Đại Minh, còn có quyền thống soái tinh binh bốn trấn biên quân trong Kinh doanh, thứ nào cũng đều là quyền thế ngút trời.

Môn hạ và đại nhân chung một nhịp thở, vinh nhục có nhau, đối với chuyện con đường công danh của đại nhân, môn hạ đâu dám không tận tâm tận lực? Không biết đại nhân muốn từ chối chức vụ gì? Thân thể lụ khụ của môn hạ đã chìm nổi mấy chục năm trong chốn quan trường, may ra môn hạ có thể đưa ra một vài thiển kiến để đại nhân tham khảo.

“Hóa ra Tiêu Phương cũng thấy được là Lưu Cẩn đem đặt ta ở trên giàn nướng” Dương Lăng có phần bất ngờ, không nghĩ rằng Tiêu Phương lại thành thật với y như thế. Trước nay Tiêu Phương có biểu hiện quá mức nịnh nọt, khó tránh khiến người ta có phần coi thường lão.

Suy nghĩ một lúc, Dương Lăng thẳng thắn bày tỏ:

- Không dối các lão (*),bây giờ bổn quan đang tập trung tinh thần nghĩ tới việc giải trừ cấm biển, khiến cho Đại Minh thêm giàu có sung túc. Về quyền thống lĩnh quân đội huấn luyện binh lĩnh, ha ha, bổn quan xuất thân là văn nhân, chẳng qua đã từng làm tham tướng cho Thần Cơ doanh thôi, sao có thể thống soái được tổng binh bốn trấn? Hoàng Thượng tín nhiệm như vậy, ta làm bề tôi càng nên tự lượng sức mình, phần binh quyền này là phần ta muốn giao trả.

(*): Tiếng gọi tôn kính các lão thần đang gia nhập nội các.

Tiêu Phương hơi hơi nhíu mày, dè dặt:

- Ừm! Giao binh quyền ra, sẽ tránh khỏi người ta đố kỵ, thật là phương pháp giữ mình sáng suốt. Chẳng qua nếu làm như vậy, đại nhân sẽ an tâm ở Nội xưởng, giữ lại quyền đôn đốc bách quan sao?

Dương Lăng nhìn lão chăm chú, hỏi:

- Các lão nghĩ thế nào?

Tiêu Phương lắc đầu nói:

- Thứ cho môn hạ nói càn, môn hạ cho rằng vạn lần không thể!

Dương Lăng chỉ nghĩ tới kết minh với Ngột Lương Cáp ở phương bắc, khơi mào nội loạn Thát Đát. Sau khi khiến bọn chúng suy yếu thì chỉ cần dùng quân lực, Đại Minh cũng có thể tiêu diệt được chúng. Y chỉ muốn thực hiện được việc lớn bải bõ bế môn tỏa cảng, thông thương với vạn quốc. Ngoài việc trong thời gian ngắn có thể khiến cho dân giàu nước mạnh, trao đổi tri thức, giao lưu văn hóa với lân bang, việc bỏ cấm biển tất yếu sẽ từ từ ảnh hưởng tới dân chúng Đại Minh, khiến cho trải qua mưa dầm thấm lâu mà sinh ra biến hóa.

Muốn thay đổi tư tưởng, quan niệm đã hình thành qua trăm vạn năm của toàn thể các giai cấp trong một quốc gia để từ đó thay đổi xu hướng lịch sử của quốc gia, việc đó không thể nào bằng vào sức lực của một đế vương, một quyền thần có thể làm được. Y tin tưởng chỉ cần có thể duy trì sự giao lưu với thế giới thì đế quốc hiện vẫn đang giàu có và hùng mạnh nhất thế giới này sẽ không bị suy bại.

Trí tuệ và năng lực của y cũng không cao hơn cổ nhân là bao. Sở trường duy nhất của y là kiến thức lịch sử đã được tổng quát hóa, mà cho dù y nói ra những kiến thức này thì cũng sẽ bị người ta coi là ngôn luận hoang đường. Bọn họ không thể nào hiểu được những lý luận của mấy trăm năm sau. Chỉ có đồng bộ cùng với thế giới, khiến cho dân chúng Đại Minh có thể tiếp xúc với những thứ mới mẻ này, khiến cho bọn họ cảm thụ từng chút từng chút một trong cuộc sống, tự mình tìm hiểu và nhận thức điều gì là tiên tiến, điều gì là lạc hậu.

Cho nên có thể làm được những điều này là đủ rồi, sứ mạng của y cũng hoàn thành. Còn về quyền lực cao cao tại thượng, có thể mang đến vinh quang vô cùng, nhưng không phải là không mang theo gió tanh mưa máu đó sao? Nếu như mình không phải chỉ còn sống hai năm trên đời, lúc đó mình sẽ rời xa chốn trung tâm quyền lực, trốn tránh ở hậu trường bo bo giữ mình, sống cùng với kiều thề mỹ thiếp cả đời, sẽ tiêu diêu tự tại biết bao?

Trong lòng của Dương Lăng nghĩ như thế, cho nên nghe lời Tiêu Phương cũng không thèm để tâm, chỉ khẽ cười hỏi:

- Có gì mà không thể?

Tiêu Phương đáp:

- Người còn việc còn, người mất việc mất! Đại nhân phải biết trong triều đình và dân gian có biết bao nhiêu người đang phản đối việc bãi bỏ lệnh bế môn tỏa cảng. Nếu như đại nhân cho rằng kế sách này được triển khai liền có thể kê cao gối mà ngủ, từ nay về sau buông bỏ quyền lực, không màng để tâm, thì môn hạ e rằng đại nhân sẽ chỉ có thể nhìn tâm huyết của mình uổng công vô ích, bỏ dở nửa chừng.

Dương Lăng nghe xong trong lòng rúng động. Đúng rồi, từ xưa đến nay những ví dụ về người mất, chính sách dừng còn thiếu sao? Xa rời quyền lực trung tâm, còn mong có thể bảo đảm thi hành chính sách hay sao? Thế nhưng... Binh quyền... Thực sự quá khó giải quyết, đó là thanh kiếm sắc treo lơ lửng ở đỉnh đầu chẳng biết đến lúc nào thì rơi xuống.

Y nhíu mày bảo:

- Vì để thuyết phục quan văn và ti Lễ Giám hợp tác, bổn quan đã sớm nhận lời là bỏ quyền ty thuế. Chuyện này chắc lão cũng biết và đã phản đối. Chẳng lẽ buông bỏ binh quyền cũng không đúng sao? Binh quyền ở trong tay, thực sự là như cưỡi trên lưng hổ đấy.

Tiêu Phương đáp:

- Từ cổ chí kim quyền lực còn lớn hơn tài phú. Dù Thạch Sùng giàu có nhất nước, cũng không bằng tướng lĩnh nắm quân đội một phủ trong tay. Thuế chính là tiển bạc của triều đình, vì vậy giữ lại chính là trái pháp luật. Huống hồ Nội xưởng dồi dào tài nguyên, giao bớt quyền thu thuế ra để cho bộ Hộ và Ti Lễ giám kiềm chế lẫn nhau, vốn cũng chẳng có chuyện gì.

Nội xưởng đứng độc lập ở bên ngoài triều đình, lại có liên hệ chặt chẽ với tương lai của Hoàng thượng, đây là chính là chốn an thân của đại nhân, vì vậy quyền giữ Nội xưởng cũng không thể suy suyển được. Thế nhưng cũng bởi vì Nội xưởng đứng độc lập ở bên ngoài triều đình, nên đại nhân vĩnh viễn chỉ có thể núp ở hậu trưởng, không có cách nào chân chính can thiệp vào triều đình, vĩnh viễn chỉ là người ngoài cuộc. Nội tướng Lưu công có quyền “Phê hồng”, nay Lưu công và đại nhân hòa hảo với nhau, đại nhân có thể nhờ lão thao túng cục diện chính trị. Thế nhưng giả như một ngày nào đó đôi bên sinh ra hiềm khích thì sao? Chẳng phải là đại nhân không thể với tới triều đình hay sao?

“Một ngày nào đó? Ngay bây giờ đã muốn trở mặt rồi!”

Dương Lăng đã hiểu rõ trong giọng điệu Tiêu Phương có ý tứ gì. Y cũng biết tuy lão là nội các Đại học sĩ, nhưng nếu như Lưu Cẩn thật sự xung đột chính diện với y, cho dù Tiêu Phương hoàn toàn đứng bên cạnh y nhưng mất đi ủng hộ của Lưu Cẩn, bản thân mình lại không thể trực tiếp tham gia việc triều chính thì một mình Tiêu Phương cũng một cây làm chẳng nên non, rất khó tạo nên ảnh hưởng gì.

Dương Lăng nghĩ tới đây lại không khỏi lắc đầu chần chừ. Bắt đầu nắm binh dẫn tới tham dự triều chính, lại không bỏ Nội xưởng, sẽ khiến cho không biết bao nhiêu đại thần kiêng dè mình, tất nhiên bọn họ sẽ nghĩ hết các biện pháp trói buộc kiềm chế. Khi đó mỗi ngày mình đều rơi vào cảnh phải đấu đá, đề phòng có người hãm hại thì còn có thể làm được cái gì nữa? Huống chi Hoàng thượng tuổi còn nhỏ, bây giờ còn chưa biết lợi hại trong đó; qua hai năm nữa, Chính Đức còn có thể yên tâm giao nhiều quyền lực như thế cho một bẩy tôi hay không?

Tiêu Phương nheo mắt nhẹ nhàng uống rượu, từ tốn hỏi:

- Đại nhân! Ngài cho rằng danh thần ngày xưa, sự nghiệp cả đời được thành tựu, trước sau vẹn toàn là nhờ vào điều gì?

Dương Lăng đáp:

- Tất nhiên là tài cán hơn người, lại có thể nhìn rõ thời thế, nhận định tình hình, không cuồng vọng kiêu ngạo lấn át chủ. Đồng thời phải gặp được minh quân, mới tạo dựng được sự nghiệp to lớn, bình an cả đời.

Tiêu Phương gật gật đầu, lại lắc đầu bảo:

- Nhưng môn hạ cho rằng, điểm quan trọng nhất chính là chí hướng của Hoàng thượng.

Dương Lăng nhíu mày hỏi:

- Chí hướng của Hoàng thượng? Lời này nên hiểu thế nào?

Tiêu Phương đáp:

- Chí hướng của Hán Vũ Đế đặt vào khai cương thác thổ (nới rộng biên cương, mở rộng đất đai), tạo ra một giang sơn nhà Hán hùng mạnh, cho nên ngài trọng dụng những nhân tài có thể phò vua xây dựng nên nghiệp lớn này. Do đó Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh mới có thể trổ hết tài năng, trở thành bầy tôi quyền lực nhất. Chọn lựa của Đường Thái Tông chính là sửa sang nên một Đại Đường hoàng kim, nhân gian thái bình, cho nên ngài trọng dụng một đám danh thần chuyên văn trị như Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối. Thế chí hướng của đương kim Hoàng hượng là ở nơi nào?

Dương Lăng buột miệng:

- Hoàng Thượng mê võ, ý định đặt vào khai cương thác thổ, làm một vị hoàng đế thần võ.

Tiêu Phương vỗ tay nói:

- Đúng vậy! Cho nên việc đại nhân cầm binh chính là cơ hội ngàn năm có một. Chỉ có cầm binh, luyện binh, dùng binh mới là hợp ý Hoàng thượng, mới có thể vĩnh viễn đi trên cùng một con đường với Hoàng thượng, thánh quyến mới có thể bền lâu không đổ. Về phần đại nhân lo lắng nắm giữ binh quyền sẽ dẫn tới kiêng dè, ngày xưa Hán Vũ đế có thể tự mình dẫn binh trong cung cấm, nay sao đại nhân không thể để cho Hoàng thượng - vốn ham mê cầm binh, yêu thích võ nghệ - tự mình làm Thống soái?

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.