Thiên Văn

Chương 61: Ta cũng là ngươi có thể ám toán?




Vào cuối mùa đông năm tôi mười bảy tuổi, Mẹ quả quyết rằng tôi sống thật đáng chán, có lẽ vì tôi hiếm khi ra khỏi nhà, cứ nằm bẹp gí trên giường, nhai đi nhai lại một cuốn sách, ăn uống thất thường, và dành khá nhiều thời gian rảnh rỗi của mình để nghĩ về cái chết.

Bất cứ khi nào bạn đọc một cuốn sổ tay, trang web hoặc bất cứ điều gì về ung thư, người ta luôn liệt kê trầm cảm là một trong những tác dụng phụ của căn bệnh này. Nhưng trên thực tế, trầm cảm không phải là tác dụng phụ của ung thư. Trầm cảm là tác dụng phụ của việc chờ chết. (Ung thư cũng là một tác dụng phụ của cái sự chờ chết này. Hầu như tất cả mọi thứ đều vậy, thật đó!) Nhưng Mẹ tin rằng tôi cần được điều trị nên bà đưa tôi đến gặp ông Jim, ông bác sĩ quen của tôi. Bác sĩ Jim cũng đồng tình là tôi quả thực đang bơi trong một bể trầm cảm làm tê liệt mọi hoạt động và khiến tôi thờ ơ với mọi sự xung quanh. Vì thế cần phải điều chỉnh liệu trình chữa bệnh của tôi. Lời khuyên đưa ra là hằng tuần tôi nên đến tham gia Hội Tương Trợ.

Hội Tương Trợ là một sân khấu gồm nhiều diễn viên trẻ mắc đủ loại bệnh ung bướu khác nhau thi nhau luân diễn cùng một vai. Tại sao lại luân diễn vai đó? Tôi nói rồi, là tác dụng phụ của sự chờ chết ấy mà!

Dĩ nhiên Hội Tương Trợ này chán òm như chui vô hòm. Chúng tôi gặp nhau vào thứ Tư hàng tuần dưới tầng hầm của một nhà thờ Tân giáo được xây bằng đá và có hình dạng của cây thập tự. Cả nhóm ngồi tụ thành vòng tròn ở giữa cây thập tự này, nơi hai đoạn thập tự giá giao nhau, ngay chỗ trái tim của Chúa Giêsu.

Tôi nhận thấy điều này bởi vì anh Pattrick, Hội Trưởng Hội Tương Trợ và là người duy nhất trên mười tám tuổi trong bọn, cứ huyên thuyên về chuyện trái tim của Chúa Giêsu vào mỗi buổi họp, về tất tần tật những chuyện làm thế nào mà chúng tôi, những bệnh nhân ung thư trẻ tuổi còn sống, đang ngồi ngay giữa trái tim rất thiêng liêng của Ngài và bất cứ chuyện nhăng nhít nào khác.

Sau đây là những gì đã diễn ra chỗ trái tim của Chúa: Khoảng sáu hoặc bảy hoặc mười người trong chúng tôi đi/đẩy xe lăn đến, lướt mắt qua hàng bánh quy và nước chanh nghèo nàn, ngồi xếp thành một Vòng tròn Tin tưởng, và lắng nghe anh Patrick kể lại câu chuyện lần thứ một ngàn về cuộc đời khốn khổ và nhạt nhẽo của anh – rằng anh bị ung thư tinh hoàn và mọi người cứ đinh ninh rằng anh sẽ chết, nhưng anh đã không chết. Giờ anh ở đây, dưới tầng hầm nhà thờ tại thành phố xinh đẹp hạng thứ 137 của Mỹ. Và anh là một người đàn ông trưởng thành, đã ly dị vợ, nghiện chơi điện tử và hầu như không có bạn bè. Nghề tay trái giúp anh cải thiện cuộc sống đạm bạc hằng ngày là khai thác triệt để bi kịch chống chọi với căn bệnh ung thư trong quá khứ và tìm cách học dần lên thạc sĩ, vốn sẽ chẳng giúp mấy cho tương lai sự nghiệp của anh. Và anh cũng chờ đợi, như cả bọn đang mòn mỏi đợi thanh gươm Damocles đến giải thoát cho mình, một kết thúc mà anh đã may mắn thoát khỏi từ nhiều năm trước, khi căn bệnh ung thư quái ác tước mất của anh cả hai hòn bi. Nhưng cũng còn may là chừa cho anh mạng sống, như những người nhân ái vẫn thường chép miệng an ủi.

VÀ BIẾT ĐU CÁC BẠN CŨNG SẼ MAY MẮN NHƯ THẾ!

Sau đó, chúng tôi sẽ lần lượt giới thiệu bản thân: Tên, tuổi, chẩn đoán của bác sĩ, và tình hình sức khỏe ngày hôm nay. Đến phiên mình, tôi nói như thuộc lòng: “Mình là Hazel. Mười sáu tuổi. Mới đầu chỉ là ung thư tuyến giáp nhưng nào ngờ đã có hẳn một tập đoàn hoành tráng di căn từ lâu vào trong phổi của mình. Và mình vẫn ổn.”

Mỗi khi chúng tôi giới thiệu hết một lượt, anh Patrick luôn hỏi xem có ai muốn chia sẻ thêm không. Và sau đó lại bắt đầu một vòng tròn tương trợ: cả bọn thi nhau kể lể nào là tranh đấu, chiến đấu và chiến thắng, nào là khối u bị thu hẹp và phải chụp cắt lớp kiểm tra. Để công bằng, anh Patrick cũng cho phép chúng tôi nói về việc chờ chết. Nhưng hầu hết chúng tôi sẽ không sớm gặp tử thần. Đa số sẽ sống đến khi trưởng thành, như anh Patrick vậy.

(Điều này đồng nghĩa với việc sẽ gây ra nhiều cuộc đua tranh trong nhóm, khi mỗi bạn không chỉ muốn đánh bại căn bệnh ung thư mà còn mong hạ gục mấy bạn còn lại. Cũng giống như, tôi thấy điều này thật khó giải thích cho suôn sẻ, chẳng hạn như khi họ nói rằng bạn chỉ có 20 phần trăm cơ hội để sống thêm năm năm nữa thì ngay lập tức bạn nhẩm tính và ra kết quả một phần năm... Rồi bạn nhìn quanh và thầm nghĩ giống như cách một người khỏe mạnh hay nghĩ, là mình phải sống lâu hơn bốn bạn khác trong nhóm.)

Điểm duy nhất gỡ gạc cho Hội Tương Trợ là một anh chàng tên Isaac, với dáng người mảnh khảnh, khuôn mặt dài, mái tóc thẳng màu vàng che khuất một bên mắt.

Và đôi mắt của anh này mới là vấn đề. Anh mắc chứng ung thư mắt, một căn bệnh gần như không thể xảy ra trên đời này. Các bác sĩ đã lấy đi một con mắt khi anh hãy còn là một đứa trẻ. Và bây giờ anh đeo cặp kính dày cộp, làm đôi mắt của anh (cả thật lẫn giả) đều trông siêu to. Giống như nguyên cái đầu chỉ có con mắt giả và con mắt thật luôn nhìn chăm chăm vào bạn. Từ những gì tôi có thể nhớ được trong mấy dịp hiếm hoi khi anh Isaac chia sẻ với nhóm, thì một lần bệnh tái phát đã khiến cho con mắt còn lại của anh cũng trong tình thế ‘ngàn cân treo sợi tóc’.

Anh Isaac và tôi giao tiếp gần như chỉ thông qua tiếng thở dài. Mỗi khi ai đó thảo luận về chế độ ăn kiêng chống ung thư, hít bột vây cá mập hoặc bất cứ liệu pháp gì, anh đều nhìn về phía tôi và thở dài thật khẽ. Tôi lắc đầu rất khẽ và cũng thở dài đáp lại.

Vậy là ý tưởng tham gia Hội Tương Trợ xem như hỏng bét. Và sau một vài tuần, tôi thấy đã đến lúc phải la hét, đấm đá phản đối vụ này. Thật ra, vào đúng ngày thứ Tư tôi quen với Augustus Waters, tôi đã đấu tranh kịch liệt với hy vọng sẽ được giải phóng khỏi Hội Tương Trợ, khi đang ngồi trên ghế sa-lông xem tập ba của cuộc tranh tài dài mười hai tiếng trong chương trình Siêu mẫu Mỹ mùa giải trước, mà phải thú thật rằng tuy đã xem rồi nhưng tôi vẫn rất thích xem lại.

Tôi: “Mẹ ơi, con không muốn tham gia Hội Tương Trợ nữa đâu.”

Mẹ: “Một trong các triệu chứng của trầm cảm là không hứng thú tham gia vào các hoạt động.”

Tôi: “Mẹ cứ cho con xem Siêu mẫu Mỹ đi. Đó cũng là một hoạt động vậy.”

Mẹ: “Xem ti-vi là một hoạt động thụ động.”

Tôi: “Ui, con xin Mẹ!”

Mẹ: “Hazel, con đã lớn thành thiếu nữ rồi chứ không còn là trẻ con nữa. Con cần phải kết bạn, ra khỏi nhà,và sống cuộc sống của riêng con.”

Tôi: “Nếu Mẹ muốn con là thiếu nữ thì đừng đưa con đến Hội Tương Trợ nữa. Mẹ hãy mua cho con một CMND giả để con có thể lượn lờ ở mấy câu lạc bộ, uống vodka, và phê cần sa.”

Mẹ: “Mới tập tành hút thì không phê được đâu.”

Tôi: “Thấy chưa, ít ra thì con sẽ biết được điều đó nếu Mẹ chịu mua cho con một CMND giả.”

Mẹ: “Con phải tham gia Hội Tương Trợ.”

Tôi: “Khôngggggg.”

Mẹ: “Hazel này, con xứng đáng được tận hưởng cuộc sống.”

Câu này khiến tôi im bặt, mặc dù tôi cũng không hiểu việc tham gia Hội Tương Trợ thì liên quan gì đến khái niệm cuộc sống. Nhưng tôi vẫn đồng ý đi, sau khi đàm phán thành công quyền ghi lại một tập rưỡi chương trình Siêu mẫu Mỹ mà tôi bị lỡ không xem được.

Thế là tôi đến gặp Hội Tương Trợ để làm vui lòng Ba Mẹ. Cũng cùng lý do như lần tôi để mặc mấy chị y tá chỉ mới học điều dưỡng lõm bõm chừng mười tám tháng đầu độc mình với các loại hóa chất có đủ tên gọi phức tạp. Vì trên đời này có một chuyện còn đau nhức nhối hơn việc bạn bị căn bệnh ung thư hoành hành ở tuổi mười sáu, đó là có một đứa con bị mắc bệnh ung thư.

Mẹ rẽ vào con đường vòng phía sau nhà thờ lúc 4:56. Lúc ấy tôi đang vờ nghịch chiếc bình ô-xy của mình để giết thời gian.

“Con có muốn Mẹ đeo nó vào giúp không?”

“Không, con làm được mà!” Tôi nhanh nhảu đáp. Bình xy-lanh màu lục này chỉ nặng khoảng một ký mấy và có thêm một giá thép nhỏ có chân bánh xe sẽ được cài vào lưng tôi khi di chuyển. Chiếc bình cung cấp hai lít ô-xy cho tôi mỗi phút bằng một ống thông trong suốt, nối từ bình đến dưới cổ tôi thì chia thành hai tuyến chạy dọc sau hai vành tai rồi cuối cùng chập lại trong mũi tôi. Thiết bị quái đản này rất tiện dụng vì hai lá phổi của tôi chẳng còn làm nên trò trống gì nữa.

Mẹ nói khi tôi bước ra khỏi xe: “Mẹ yêu con.”

“Con cũng yêu Mẹ. Sáu giờ mẹ nhớ đón con nha!”

“Con nhớ kết bạn nhé!” Mẹ nói qua khung cửa kính đang mở vào lúc tôi quay lưng bước đi.

Tôi không muốn đi thang máy vì đại loại ta chỉ đi thang máy vào Những Ngày Cuối Cùng tham dự Hội Tương Trợ, thế nên tôi leo thang bộ. Tôi chộp lấy một chiếc bánh quy và đổ một ít nước chanh vào chiếc tách Dixie rồi nhìn quanh.

Một anh chàng đang nhìn tôi chằm chặp.

Tôi khá chắc chắn là mình chưa bao giờ thấy tên này trước đây. Con trai gì mà tứ chi lẻo khoẻo, hắn khiến chiếc ghế nhựa dành cho cấp tiểu học đang ngồi đã nhỏ trông càng nhỏ hơn. Tóc hắn màu gụ đỏ, ngắn và thẳng. Hắn trạc tuổi tôi, có thể lớn hơn tôi một hai tuổi. Hắn ngồi tì vào ghế, tư thế khá tù túng, với một tay đút hờ trong túi quần jean sậm màu.

Tôi quay mặt đi, đột nhiên ý thức về vẻ ngoài tuềnh toàng của mình. Tôi đang mặc một chiếc quần jean cũ rích, hồi xưa cũng ôm khít nhưng giờ đã bị giãn ở những vị trí kỳ quặc, cùng một chiếc áo thun màu vàng quảng cáo cho một ban nhạc mà thậm chí tôi đã không còn hâm mộ nữa. Rồi đến tóc tai: Tôi để tóc ngắn cũn cỡn kiểu con trai, và thậm chí cũng chả buồn, ừm, đại loại như chải tóc cho tươm tất. Hơn nữa hai má tôi, do tác dụng phụ của quá trình điều trị, cứ núng nính béo phệ đến buồn cười. Tôi nhìn giống như một người bình thường cân đối với cái đầu tròn vo như một quả bóng. Đó là chưa kể đến tình trạng hai cổ chân cũng bị sưng vù. Tuy nhiên tôi khẽ liếc trộm hắn, và mắt hắn vẫn dán chặt vào tôi.

Tôi chợt hiểu tại sao người ta gọi đó là giao tiếp qua ánh mắt.

Tôi bước vào vòng tròn và ngồi xuống bên cạnh anh Isaac, cách hắn hai ghế. Tôi liếc nhìn lần nữa. Hắn vẫn đang nhìn tôi.

Thôi được, tôi phải thú nhận rằng: Hắn rất bảnh. Nếu một anh chàng chẳng có gì là bảnh cứ nhìn chằm chằm vào bạn không ngừng thì trường hợp tốt nhất được xem như một ánh nhìn vụng về, còn trường hợp tệ nhất là một hình thức tấn công. Nhưng nếu là một anh chàng bảnh bao thì... bạn biết đấy!

Tôi lấy điện thoại ra và bấm bàn phím để xem giờ - 4:59. Vòng tròn dần lấp đầy với những bạn từ mười hai đến mười tám tuổi kém may mắn như tôi và sau đó anh Patrick bắt đầu với nghi thức cầu nguyện: Đức Chúa Trời, xin Ngài hãy ban cho con sự thanh thản để chấp nhận những điều con không thể thay đổi, lòng can đảm để đổi thay những điều con có thể thay đổi, và sự khôn ngoan để nhận biết sự khác biệt. Hắn vẫn nhìn tôi chằm chặp. Tôi thấy hơi thẹn thùng.

Cuối cùng, tôi quyết định rằng chiến lược đúng đắn nhất là hãy nhìn lại. Không phải chỉ con trai mới được quyền Nhìn Chòng Chọc như thế. Vì vây, tôi nhìn hắn một lượt trong khi anh Patrick huyên thuyên lần thứ một ngàn về câu chuyện bị cắt tinh hoàn của anh, vân vân. Và thế là cuộc thi nhìn không chớp mắt bắt đầu. Sau một lúc, hắn mỉm cười và cuối cùng đôi mắt xanh biếc ấy cũng chịu nhìn đi chỗ khác. Khi hắn quay lại, tôi khẽ nhướng mày như nói “Một – không”.

Hắn nhún vai. Anh Patrick tiếp tục kể lể và cuối cùng cũng đến đoạn cả nhóm tự giới thiệu. “Isaac, có lẽ hôm nay cậu muốn phát biểu đầu tiên. Anh biết cậu đang trải qua một giai đoạn đầy thử thách.”

“Vâng.” Anh Isaac đáp. “Tôi tên Isaac, mười bảy tuổi. Rất có thể tôi sẽ phải phẫu thuật trong một vài tuần nữa và sau đó mù hẳn. Tôi không phàn nàn hay gì gì bởi vì tôi biết rất nhiều người trong chúng ta còn bị bệnh nặng hơn. Ừ, nhưng đúng là bị mù thì xui xẻo thật. Cũng may là tôi có bạn gái bên cạnh ủng hộ về mặt tinh thần. Và những người bạn như Augustus.” Anh gật đầu nhìn về phía hắn, kẻ bây giờ đã có tên. “Vậy nên,” anh Isaac trầm giọng, mặt cuối gầm nhìn xuống hai bàn tay đang để áp vào nhau tạo hình chóp lều, “chúng ta không thể làm gì hơn nữa.”

“Chúng tôi ở đây ủng hộ cậu, Isaac.” Anh Patrick nói. “Nào các bạn, hãy để Isaac nghe thấy điều đó.” Thế là tất cả chúng tôi đồng thanh: “Chúng tôi ở đây ủng hộ cậu, Isaac.”

Tiếp theo là Michael. Em mới mười hai tuổi và mắc bệnh bạch cầu. Em luôn bảo em bị bệnh bạch cầu. Em vẫn ổn. (Là em nói thế. Em phải đi thang máy.)

Lida mười sáu tuổi và khá dễ thương, đủ để lọt vào mắt xanh của anh chàng bảnh trai kia. Bạn ấy bị một ca nhẹ, vì căn bệnh ung thư ruột thừa đã thuyên giảm từ lâu (mà đến giờ tôi mới biết trên đời này có bệnh ung thư ruột thừa). Suốt mấy buổi tôi tham gia Hội Tương Trợ, buổi nào bạn ấy cũng bảo mình đang khỏe lên, tôi có cảm tưởng như bạn ấy đang khoe khoang vậy, cảm giác nhột nhạt cứ như đang bị hai đầu ô-xy cù vào lỗ mũi.

Thêm năm người khác phát biểu rồi đến tên đó. Hắn khẽ mỉm cười khi đến lượt mình. Giọng hắn trầm, hơi khàn và quyến rũ chết người. “Tên tôi là Augustus Waters.” Hắn lên tiếng. “Tôi mười bảy tuổi. Cách đây một năm rưỡi tôi bị u xương ác tính, cũng xoàng thôi, hôm nay tôi đến đây theo yêu cầu của Isaac.”

“Và giờ cậu thấy thế nào?” Anh Patrick hỏi.

“Ồ, khỏe như vâm.” Augustus Waters cười nhếch miệng. “Tôi đang ngồi trên một chiếc tàu lượn siêu tốc mà chỉ thẳng hướng đi lên, ông anh à.”

Khi đến lượt mình, tôi nói ngắn gọn: “Tên tôi là Hazel. Tôi mười sáu tuổi. Bị ung thư tuyến giáp di căn vô phổi. Tôi ổn.”

Một giờ trôi qua nhanh chóng: Những cuộc đấu tranh chống chọi với cơn bạo bệnh được kể lại; niềm vui chiến thắng giữa những cuộc chiến cầm chắc thất bại; tiếp tục bấu víu vào niềm hy vọng mong manh; gia đình hết ăn mừng lại nghe thông báo ‘vô phương cứu chữa’; bạn bè cùng lứa chẳng bao giờ hiểu thấu nỗi đau; những giọt nước mắt đã rơi và những lời an ủi được nói ra. Cả Augustus Waters và tôi đều không nói gì đến khi anh Patrick động viên: “Augustus, có lẽ cậu muốn chia sẻ với nhóm về nỗi sợ hãi của cậu.”

“Nỗi sợ hãi của tôi?”

“Ừ.”

“Tôi sợ bị chìm vào quên lãng.” Hắn đáp không đắn đo. “Tôi sợ điều đó giống như một người mù sợ bóng tối vậy.”

“Còn quá sớm để kết luận.” Anh Isaac mỉm cười nói.

“Bộ nói vậy động chạm đến mày à?” Augustus hỏi. “Đấy, đôi khi tao cũng mù tịt về cảm giác của người khác.”

Anh Isaac bật cười thành tiếng nhưng anh Patrick đưa ngón tay ra dấu trật tự và bảo: “Này Augustus, đề nghị cậu quay lại chủ đề chính là cậu và cuộc chiến của cậu nhé. Cậu nói là cậu sợ bị chìm vào quên lãng ư?”

“Vâng.” Augustus đáp.

Anh Patrick tỏ ra bối rối: “Có, ừm, có bạn nào muốn chia sẻ thêm về nỗi sợ này không?”

Tôi đã không đi học đàng hoàng ở trường suốt ba năm nay. Ba Mẹ tôi là hai người bạn thân nhất luôn ở bên tôi. Người bạn tốt thứ ba của tôi là một tác giả thậm chí còn không biết đến sự tồn tại của tôi. Tôi là một người khá nhút nhát, không phải tuýp người hay giơ tay phát biểu ý kiến.

Tuy nhiên, lần này tôi quyết định lên tiếng. Tôi ngập ngừng giơ tay và anh Patrick vui mừng ra mặt, ngay lập tức gọi: “Hazel!” Chắc anh ấy nghĩ rằng tôi đang cởi mở hơn. Đang Trở Thành Một Thành Viên Thực Thụ Của Hội.

Tôi đưa mắt về phía Augustus Waters, hắn cũng đang nhìn tôi. Đôi mắt xanh biếc như thể soi thấu tâm hồn hắn. Tôi cất tiếng: “Sẽ đến một thời điểm mà tất cả chúng ta đều chết hết. Tất cả chúng ta. Sẽ đến một thời điểm mà không có người nào còn sống và nhớ xem ai đã từng hiện diện trên cõi đời này hay nhớ xem loài người chúng ta đã làm được những gì. Sẽ không còn ai sống để mà nhớ đến Aristotle hay Cleopatra, huống chi là nhớ đến bạn. Những gì chúng ta đã làm, đã gây dựng nên, viết, suy nghĩ hay phát hiện đều sẽ bị lãng quên và tất cả mọi thứ,” tôi huơ tay một vòng, “đều sẽ trở thành con số không tròn trĩnh. Có thể thời điểm đó sẽ đến sớm hoặc cũng có thể là hàng triệu năm nữa, nhưng cho dù chúng ta có may mắn sống sót qua ngày mặt trời giãy chết, chúng ta cũng sẽ không sống mãi được. Đã từng có thời kỳ con người thậm chí không có ý thức hệ như ngày nay. Và nếu cái việc không thể tránh khỏi như bị lãng quên khiến bạn lo lắng thì tôi khuyên bạn chân thành là hãy quên nó đi. Chúa biết rồi sẽ như vậy mà!”

Tôi học được điều này từ người bạn tốt thứ ba nói trên, Peter Van Houten, tác giả ẩn dật của cuốn Nỗi đau tột cùng, cuốn sách tôi sùng bái như thể quyển Kinh Thánh. Peter Van Houten là người duy nhất tôi tình cờ biết rằng dường như (a) hiểu chết dần chết mòn là như thế nào, và (b) vẫn chưa chết.

Sau khi tôi dứt lời, bầu không khí trở nên im ắng cho đến chừng tôi ghi nhận được một nụ cười nở rộng trên khuôn mặt của Augustus – không phải cái cười nhếch mép của chàng trai cố tỏ ra quyến rũ khi nhìn chằm chặp vào tôi lúc nãy, mà là nụ cười thực sự của hắn, quá lớn so với khuôn mặt xương xương. “Chúa ơi,” Augustus khẽ thốt lên. “Em này là thánh sống à?!”

Không một ai trong chúng tôi nói thêm gì trong suốt khoảng thời gian còn lại của buổi họp mặt. Cuối cùng, tất cả đều chắp tay khấn nguyện theo lời anh Patrick: “Lạy Chúa Giêsu, chúng con, những đứa con may mắn thoát chết khỏi căn bệnh ung thư, hôm nay tụ họp ở đây trong trái tim của Ngài, theo đúng nghĩa đen là ngay trong trái tim của Ngài. Ngài và chỉ có Ngài mới biết rõ chúng con như chính chúng con biết về bản thân mình. Xin Ngài hãy dẫn đường cho chúng con và soi rọi Ánh sáng cho chúng con vượt qua giai đoạn thử thách này. Chúng con thành tâm cầu nguyện cho đôi mắt của Isaac, cho máu của Michael và Jamie, cho xương của Augustus, cho phổi của Hazel, cho cổ họng của James. Chúng con cầu xin Ngài hãy chữa lành cho chúng con và cho chúng con cảm nhận được tình yêu chứa chan và bình an của Ngài, vốn nằm ngoài sự hiểu biết của nhân loại. Và chúng con xin ghi nhớ trong tim những người bạn mà chúng con hết lòng yêu mến, những người bạn đã trở về bên Ngài, đó là Maria, Kade, Joseph, Haley, Abigail, Angelina, Taylor, Gabriel,...”

Danh sách còn dài dằng dặc như thể thế giới này toàn người chết. Và trong khi giọng anh Patrick đều đều xướng tên từng người từ danh sách viết sẵn trên giấy vì nó quá dài không thể nhớ hết, tôi nhắm mắt lại và cố tập trung cầu nguyện. Nhưng rốt cuộc tôi chỉ hình dung được mỗi cái ngày tên mình lọt vào danh sách, nằm tít tắp ở dòng cuối, khi mà tất cả mọi người chẳng buồn nghe nữa.

Sau khi anh Patrick đọc hết danh sách, chúng tôi cùng hô to một khẩu hiệu ngớ ngẩn – HÃY SỐNG THẬT TỐT CHO NGÀY HÔM NAY – và thế là buổi họp mặt kết thúc. Augustus Waters rời khỏi ghế và bước về phía tôi. Dáng đi của hắn cũng xiêu vẹo giống như nụ cười nửa miệng của hắn. Hắn đứng phủ bóng lên người tôi, nhưng giữ một khoảng cách vừa phải nên tôi không phải nghển cổ để nhìn vào mắt hắn. Hắn hỏi: “Em tên gì?”

“Hazel.”

“Không, tên đầy đủ cơ.”

“Ừm, thì Hazel Grace Lancaster.” Hắn định nói gì đó nhưng anh Isaac đã bước tới. “Em chờ chút,” Augustus vừa nói vừa giơ ngón trỏ ra hiệu đợi, rồi quay sang anh Isaac. “Thật chẳng hay ho gì khi mày thú nhận điều đó.”

“Tao đã nói là tình hình rất u ám mà.”

“Sao mày cứ phải bận tâm chuyện đó nhỉ?”

“Tao không biết. Có lẽ tao cần được giải tỏa bớt?”

Augustus ghé tai anh Isaac như không muốn tôi nghe thấy điều hắn hỏi: “Em này là ma cũ?” Tôi không thể nghe thấy câu trả lời của anh Isaac, ngoại trừ phản ứng của Augustus: “Trúng phóc!” Hắn siết chặt hai vai anh Isaac và lùi lại nửa bước động viên: “Hãy kể cho em Hazel nghe về bệnh tình của mày đi.”

Anh Isaac chống một tay vào chiếc bàn bày bánh và hướng con mắt khổng lồ về phía tôi. “Được thôi, số là sáng nay anh đi khám bệnh và anh đã nói với bác sĩ phẫu thuật rằng anh thà bị điếc còn hơn bị mù. Ông ấy bảo rằng ‘Mọi chuyện không theo hướng đó,’ anh đã đáp đại loại là ‘Vâng, cháu biết mọi chuyện không theo hướng đó, cháu chỉ muốn nói thà cháu bị điếc còn hơn bị mù nếu cháu được lựa chọn, mà rõ ràng là cháu không còn lựa chọn nào khác,’ ông ấy nói rằng, ‘Ừ, tin mừng là cháu sẽ không bị điếc,’ thế là anh bùng nổ, ‘Cảm ơn bác sĩ đã giải thích cho cháu hiểu rằng bệnh ung thư mắt của cháu sẽ không làm cháu bị điếc. Thật may mắn cho cháu khi sẽ được một người đại uyên bác như bác sĩ đây mổ cho.’”

“Nghe có vẻ như ông bác sĩ đã thắng thế.” Tôi nói. “Em phải cố gắng bị ung thư mắt để làm quen với ông bác sĩ đó mới được.”

“Chúc em may mắn với cái trò làm quen ấy nhé! Thôi, anh đi đây, Monica đang chờ. Anh phải tranh thủ ngắm nàng thật nhiều khi còn có thể.”

“Ngày mai sẽ chơi game Chống phiến loạn chứ?” Augustus hỏi với theo.

“Chắc chắn rồi.” Isaac vừa chạy lên cầu thang vừa ngoái đầu đáp.

Augustus Waters quay sang tôi và bảo: “Theo đúng nghĩa đen.”

“Đúng nghĩa đen gì?” Tôi hỏi.

“Thì tụi mình đang ở trong trái tim của Chúa Giêsu, theo đúng nghĩa đen,” hắn nói. “Anh cứ tưởng mọi người họp dưới tầng hầm nhà thờ thôi, ai dè đúng là tụi mình đang ở trong trái tim Chúa.”

“Ai đó nên mách lại với Chúa,” tôi lém lỉnh. “Tôi muốn nói là thật nguy hiểm khi dung chứa một đám trẻ mắc bệnh ung thư ngay trong trái tim mình.”

“Đích thân anh sẽ nói với Ngài,” Augustus đáp, “nhưng tiếc là anh đang mắc kẹt bên trong trái tim của Ngài, nên Ngài sẽ không thể nghe thấu lời anh.” Tôi bật cười. Hắn lắc đầu, nhìn tôi trân trối.

“Sao vậy?” Tôi hỏi.

“Không có gì!” Hắn đáp.

“Sao anh cứ nhìn tôi như thế?”

Augustus thoáng cười. “Bởi vì em đẹp. Anh thích nhìn người đẹp và cách đây một giây anh quyết định sẽ không chối từ thú vui trần tục đó.” Một bầu không khí im lặng bao trùm và Augustus phá tan khoảnh khắc khó xử ấy: “Ý anh là, nhất là khi em đã chỉ ra rằng, tất cả những điều này sẽ kết thúc trong quên lãng.”

Tôi phần thì mắc nghẹn, phần thì thở dài và phần thì hắt ra một tiếng ho yếu ớt, nói: “Tôi không đẹ—”

“Em giống y đúc ngôi sao Natalie Portman. Natalie Portman trong phim V for Vendetta.”

“Chưa bao giờ xem phim đó,” tôi nói.

“Thật không?” hắn hỏi lại. “Một cô gái tuyệt đẹp với mái tóc thiên thần không thích chính quyền độc tài và không thể ngăn mình yêu một chàng trai mà cô biết là rắc rối to. Mô tả về em đấy, theo như anh quan sát nãy giờ.”

Từng lời hắn nói đầy vẻ tán tỉnh. Thành thật mà nói hắn cũng khiến tôi bị kích thích. Tôi thậm chí không biết rằng, trên thực tế, con trai có thể kích thích được tôi.

Một cô gái trẻ đi ngang qua chúng tôi. “Khỏe ha, Alisa?” hắn hỏi. Cô nàng mỉm cười và thì thào, “Chào anh Augustus.” “Bệnh nhân của Memorial,” hắn giải thích với tôi. Memorial là một bệnh viện lớn chuyên về nghiên cứu lâm sàng. “Em chữa bệnh ở đâu?”

“Bệnh viện Nhi đồng,” tôi đáp lí nhí, giọng nhỏ hơn mức cần thiết. Hắn gật đầu như biết bệnh viện ấy. Và cuộc đối thoại dường như chấm dứt. “Vậy,” tôi nói, khẽ hất đầu về phía các bậc thang dẫn ra khỏi Trái Tim của Chúa. Tôi cài giá ô-xy vào bánh xe và rảo bước. Hắn đi khập khiễng bên cạnh tôi. “Vậy hẹn anh buổi sau nhé, anh có đi không?” Tôi đánh bạo hỏi.

“Em nên xem nó,” hắn nói. “Phim V for Vendetta ấy.”

“Được rồi,” tôi đáp. “Để tôi lùng phim đó.”

“Không. Với anh kìa. Tại nhà của anh,” hắn giải thích. “Bây giờ nè!”

Tôi đứng phắt lại. “Tôi có biết gì về anh đâu, Augustus Waters. Biết đâu anh là kẻ chuyên giết người bằng rìu.”

Anh gật gù. “Em nói chí phải, Hazel Grace.” Hắn bước ngang qua tôi, dáng thẳng, đôi vai vừa khít với chiếc áo polo màu lục, bước đi của hắn hơi nghiêng về bên phải khi hắn sải bước một cách vững chãi và tự tin trên một bên chân giả - tôi khẳng định thế. U xương ác tính đôi khi tước mất một chân của bạn và sau đó, nếu nó thích, nó sẽ tước luôn cái chân còn lại.

Tôi theo hắn lên cầu thang, mỗi lúc mỗi rớt lại phía sau khi phải lê từng bước một, leo cầu thang không phải là hoạt động phù hợp cho hai lá phổi của tôi.

Và khi chúng tôi rời khỏi trái tim Chúa ra đến bãi đậu xe, tiết trời mùa xuân se lạnh, ráng chiều rực rỡ nhuộm đỏ buổi hoàng hôn.

Mẹ chưa đến, thật khác với mọi khi vì hầu như buổi nào Mẹ cũng tới sớm chờ tôi. Tôi nhìn xung quanh chợt thấy một cô nàng dong dỏng cao, có thân hình quyến rũ với làn da bánh mật đang hôn anh Isaac khá nồng nhiệt, lưng áp chặt vào bức tường đá của nhà thờ. Họ đứng gần tôi đến nỗi tôi nghe rõ mồn một những âm thanh kỳ lạ phát ra từ miệng họ, và tôi có thể nghe anh Isaac nói, “Luôn luôn!” và cô nàng đáp lại, “Luôn luôn!”

Đột nhiên đứng bên cạnh tôi, Augustus thì thầm, “Hai người này thích phô trương tình cảm nơi công cộng nhỉ!”

“‘Luôn luôn!’ là gì vậy?” – Tiếng họ hôn nhau thật lộ liễu.

“‘Luôn luôn!’ là mật mã tình yêu của hai người ấy, nghĩa là anh chàng và cô nàng sẽ luôn luôn yêu nhau, kiểu như vậy. Theo anh đoán, dám chừng họ đã nhắn tin cho nhau từ luôn luôn ít nhất cũng bốn triệu lần trong năm qua.”

Thêm một chiếc ô-tô chạy vào rước Michael và Alisa về. Giờ chỉ còn mỗi Augustus và tôi, đứng nhìn anh Isaac và Monica hôn nhau càng lúc càng mãnh liệt hơn, chẳng màng đây là chốn tôn giáo linh thiêng. Anh Isaac áp tay lên ngực cô người yêu bên ngoài làn áo sơ-mi và mân mê, bàn tay anh như thâu lấy tất cả, các ngón tay không ngừng chuyển động khắp xung quanh. Không biết chuyện đó có gì thích thú không. Nhìn thì có vẻ như chẳng hứng thú gì, nhưng tôi quyết định bỏ qua cho anh Isaac vì anh ấy sắp bị mù vĩnh viễn. Dù sao, các giác quan cũng cần được thỏa mãn đến cùng khi người ta vẫn còn khát khao khám phá.

“Hãy tưởng tượng là anh đang lái xe đến bệnh viện,” tôi lặng lẽ nói. “Đó là lần cuối cùng anh được cầm lái.”

Không thèm nhìn tôi, Augustus đáp, “Em đang giết chết sự rung cảm trong anh đấy, Hazel Grace. Anh đang cố quan sát vẻ lúng túng rất dễ thương trong tình yêu mới chớm của cặp này mà.”

“Nhìn anh Isaac giống đang tra tấn ngực của Monica thì có.” Tôi bảo.

“Ừ, thì cũng khó xác định là anh chàng đang cố gắng khuấy động cảm xúc hay tiến hành khám ngực của cô nàng.” Sau đó, Augustus Waters thò tay vào túi và rút ra một gói thuốc lá. Hắn lấy một điếu kẹp vào giữa môi.

“Anh đùa à?” Tôi gặng hỏi. “Anh nghĩ hút thuốc hay ho lắm sao? Ôi trời ơi, anh vừa hủy hoại toàn bộ câu chuyện.”

“Toàn bộ chuyện gì?” hắn quay sang tôi hỏi. Điếu thuốc chưa châm lửa giắt vào một bên khóe miệng hắn.

“Toàn bộ câu chuyện về một anh chàng không hẳn là kém hấp dẫn, kém thông minh hay gần như không thể chấp nhận được khi cứ nhìn tôi chằm chặp, rồi chỉ ra cách dùng từ không chính xác theo y nghĩa đen, rồi so sánh tôi với mấy nữ diễn viên nổi tiếng, lại còn mời tôi đến xem phim tại nhà của mình. Lẽ dĩ nhiên người ta hay có cố tật và cố tật của anh là nghiện thuốc lá. Ôi, Chúa ơi, mặc dù anh đang mang trong người CĂN BỆNH UNG THƯ CHẾT TIỆT nhưng anh vẫn cúng tiền vào một công ty để đổi lấy cơ hội rước THÊM UNG THƯ vào người. Ôi, Chúa ơi. Tôi xin cam đoan với anh là tôi không thể thở nổi! CHẾT TIỆT. Hình tượng sụp đổ hoàn toàn. Hoàn toàn.”

“Cố tật à?” hắn hỏi, vẫn ngậm điếu thuốc trên môi, hai hàm răng khép chặt. Khổ nỗi hắn có một quai hàm quá nam tính.

“Một thói xấu tai hại,” tôi giải thích xong quay lưng bước ra phía lề đường, bỏ mặc Augustus Waters phía sau. Và tôi nghe tiếng một ô-tô chạy đến. Đó là Mẹ. Hóa ra bà chờ cho tôi kết bạn hoặc ‘líu lo’ thêm một chốc.

Đó là một cảm giác pha trộn kỳ lạ giữa thất vọng và giận dữ dâng trào trong lòng. Thật ra, tôi thậm chí không biết gọi tên những cảm giác ấy là gì, chỉ biết là nó dâng trào mãnh liệt. Tôi chỉ muốn quay lại đập cho Augustus Waters một phát hay thay mới phổi mình bằng những lá phổi có thể hoạt động bình thường. Tôi đang đứng mấp mé mép vỉa hè trên đôi giày đế mềm hiệu Chuck Taylor, bình ô-xy nằm gọn trong giá thép bên cạnh, và ngay khi Mẹ tôi rẽ xe vào, tôi thấy tay mình đang bị giữ chặt.

Tôi kéo mạnh tay để vùng ra nhưng rốt cuộc lại bị chới với xoay một vòng và đối diện với hắn.

“Thuốc lá sẽ không giết được ai trừ khi người đó châm thuốc hút,” hắn nói rành rọt khi Mẹ vừa trờ xe đến. “Và anh chưa bao giờ châm điếu nào hết. Đó là một phép ẩn dụ, xem này: Ta đặt cái thứ giết người này ngay giữa hai hàm răng mà không cho nó sức mạnh để giết ai cả.”

“Đó là một phép ẩn dụ à!” tôi nghi ngờ. Mẹ dừng xe nhưng vẫn để máy nổ.

“Một phép ẩn dụ,” hắn khẳng định.

“Và người ta sẽ lựa chọn hành vi của mình dựa trên phép ẩn dụ mà anh muốn truyền đạt,” tôi đoán chừng.

“Ừ, đúng rồi.” Hắn mỉm cười. Nụ cười thực sự, toe toét và ngờ nghệch. “Anh là một tín đồ của phép ẩn dụ, Hazel Grace.”

Tôi quay lại xe, gõ tay lên cửa kính. Mẹ hạ kính xe xuống. “Con sẽ đi xem phim với Augustus Waters,” tôi xin phép, “Mẹ nhớ ghi lại các tập tiếp theo của cuộc thi Siêu mẫu Mỹ hộ con nhé.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.