Thiên Nhai Hiệp Lữ

Chương 2: Dũng cảm tiến tới




Trương Dần ngồi thẳng lưng, mặt đăm chiêu. Dưới ánh đèn bàn, khuôn mặt góc cạnh của hắn nửa mờ nửa tỏ, ánh mắt hơi lập loè sau ánh nến. Đứng bên cạnh bàn là người áo xanh từng xuất hiện trên "Thái Bạch Cư" đang bận trang phục Trung quân.

Mãi một lúc sau, gả áo xanh chợt mở miệng:

- Giáo chủ liệu tính như thần, chẳng những không bị liên đới mà còn lập được công to, càng có vốn liếng để làm quan trong triều đình. Có điều... nay Cốc Đại Dụng truy lùng gắt gao, mấy tay thân hào mà bản giáo đang phát triển đều bị bắt cả rồi.

May là bọn họ tuy truy cầu trường sinh bất lão nhưng lại không bứt thiết một lòng nhập giáo, cho nên người của bản giáo chưa từng biểu lộ nhân thân thực sự với bọn họ. Bằng không dưới nhục hình tra khảo của Đông xưởng, những mật thám do bản giáo cực khổ sắp đặt khó tránh sẽ bị moi ra hết.

Trương Dần cười lớn, giọng đầy đắc ý:

- Vậy thì đã sao? Tranh giang sơn, đoạt thiên hạ làm sao tránh được hy sinh? Nếu khởi binh tạo phản, chúng ta sẽ phải tổn thất bao nhiêu nhân mã mới có thể xử lý được bấy nhiêu tướng lĩnh? Bại lộ một hai tay nằm vùng mà có thể khiến cho triều đình tự hủy đi trường thành của bọn chúng, đáng giá lắm chứ!

Như nay Cốc Đại Dụng gần như hốt sạch tướng lĩnh đóng quân tại Đại Đồng. Nếu không nhờ lão ta nhiệt tình xử án như vậy, ta thật muốn tặng mấy người đã được thu nạp vào giáo cho hắn để khuấy cho đục thêm, khiến cho cả Đại Đồng loạn đến long trời lở đất.

Nói xong hắn thu lại nụ cười, thở dài tiếc hận:

- Do thời thế, do số mệnh cả! Tiếc là lão ta tới quá muộn. Nếu lão có thể chạy tới Đại Đồng khi Bá Nhan còn đang bày binh bố trận ở ngoài thành, rồi làm thành một tuồng hay như vậy, khi ấy lòng quân tan tác, nhuệ khí sĩ tốt sụt giảm, vị tất Bá Nhan đã thua.

Gã "Quan trung quân" ngạc nhiên hỏi:

- Nếu đã vậy, vì sao giáo chủ còn đồng ý với mấy tay tướng lĩnh Đại Đồng ra mặt hộ bọn họ mà bày rượu đãi tiệc, nhờ vả Dương Lăng ngăn trở việc này? Cứ để lão họ Cốc tiếp tục gây loạn khiến tướng lĩnh Đại Đồng càng oán hận triều đình hơn nữa, há chẳng càng có lợi cho bản giáo ư?

Trương Dần mỉm cười đáp:

- Không thể được! Ngươi cho rằng Dương Lăng sẽ ngồi yên nhìn Cốc Đại Dụng tiếp tục làm xằng, gây họa như vậy à? Nếu như ta đoán không lầm, dăm ba ngày nữa y sẽ ra mặt ngăn cản việc này. Huống hồ cho dù ta không ra mặt thì Dương Nhất Thanh, Vương Thủ Nhân hoặc Đỗ Nhân Quốc, những tướng lĩnh có quan hệ mật thiết với y, cũng bị bức bách phải chạy đến gõ cửa cậy nhờ y thôi. Thay vì đợi đến lúc đó mới thêu hoa trên gấm, sao bằng ta đưa than sưởi ấm ngay lúc này?

Trương Dần nói xong lại hỏi:

- Đại pháp sư, Nghĩa nhi đã rời khỏi đây chưa? Đi đường an toàn chứ?

“Quan Trung quân” vội đáp:

- Giáo chủ yên tâm! Người của Bá Nhan vừa tiến vào quan ải, nhị công tử và giáo chúng bản giáo ngụy trang làm hoà thượng Ngũ Đài Sơn đã chia nhau trốn khỏi rồi. Nhị công tử đồ gọn xe nhẹ, thay dung đổi mạo, đã chạy thẳng đến Giang Nam. Lúc quân đội phát lệnh truy nã thì công tử đã sớm ở ngoài trăm dặm.

- Vậy thì tốt! - Gò má Trương Dần hơi giần giật, chợt hắn lắc đầu cười khổ - Nghe nói thằng nhỏ Tử Hào phải lòng tiểu thư nhà họ Liễu. Nếu nó vẫn còn ở lại đây, biết được ta sai phái Liễu cô nương hiến thân cho Dương Lăng, nhất định nó sẽ gây rắc rối với ta.

Tử Hào là tên tự của Lý Đại Nghĩa, đại pháp sư áo xanh là nghiệp sư của hắn, cho nên tình cảm có phần sâu đậm. Nghe vậy, trong mắt liền thoáng hiện lên vẻ không đành lòng, hắn khẽ thưa:

- Nay Liễu Quang là quan viên khá quan trọng duy nhất của bản giáo ở Đại Đồng. Chẳng qua lão ta chỉ là một quan Chiếu Ma nho nhỏ của sở Chiếu Ma, không liên quan đến quân sự. Lão bị dính líu do có người tố cáo, khai nhận lúc Nhị thiếu chủ còn giữ chức Phó Thiên hộ đã từng đến nhà lão viếng thăm mà thôi.

Nhà họ Liễu có cô con gái dung mạo xuất chúng nên quanh vùng có rất nhiều thanh niên anh tuấn tài giỏi tới nhà viếng thăm, quan phủ cũng không thể vịn vào cớ đó mà phán Liễu Quang là người trong bản giáo được. Nếu chắc chắn Dương Lăng sắp nhúng tay ngăn trở, như vậy chẳng mấy hôm nữa Liễu Quang sẽ được thả ra, sẽ có thể tiếp tục ở lại Đại Đồng dốc sức cho bản giáo. Nhị thiếu chủ có cảm tình với đứa con gái Liễu Phi Vũ của lão ấy, nếu giáo chủ làm như vậy, sau này nhị thiếu chủ biết được, khó tránh sẽ ôm lòng oán hận. Giáo chủ có thể tìm một thánh nữ khác dâng hiến cho Dương Lăng được không?

Trương Dần đưa ánh mắt sắc bén quét ngang qua khuôn mặt của đại pháp sư khiến hắn khẽ rùng mình. Trương Dần lạnh lùng bảo:

- Sắc đẹp yêu kiều là mồ chôn anh hùng. Nghiệp lớn của bản giáo chưa thành, há có thể lưu luyến tư tình nhi nữ? Nó có bao nhiêu đàn bà con gái đi chăng nữa, miễn là chỉ chơi bời qua đường thì ta đều không quan tâm, song nặng tình như vậy chính là đại kị!

Ánh mắt Trương Dần lập loè, hắn chậm rãi nói tiếp:

- Cốc Đại Dụng và Dương Phương đã đến đây, chắc hẳn chỉ dăm bữa nữa Hoàng đế sẽ phải hồi kinh. Hiện ta cũng không còn đủ thời gian tìm một đứa con gái khác có tư sắc và danh phận thích hợp để chậm rãi mà hành động nữa. Phu nhân của Dương Lăng xuất thân thợ săn, hai ả thiếp thất lại là thanh quan được chuộc về từ kỹ viện. Phi Vũ tốt xấu gì cũng là con gái nhà quan lại, nhân thân có không tôn quý thì vẫn hơn ba ả đó gấp mười lần. Chỉ cần chiếm được lòng yêu mến của Dương Lăng, không lo Phi Vũ không giành được sự sủng ái riêng của y.

Vả lại, Dương Lăng là do ta mời. Tuy rằng biên tái chinh chiến quanh năm, rượu chè, gái gú đã quen thành nếp, nhưng nếu để cho y hợp hoan cùng gái tân trong cơn mê, sáng mai tỉnh lại ắt sẽ nghi ngờ. Với nhân thân hiện tại của cô nương nhà họ Liễu, nếu lấy lý do là vì muốn cứu phụ thân khỏi chốn ngục tù nên đút lót tú bà để lấy thân chuộc mạng cho cha, ấy là hiếu nữ do tình thế ép buộc phải làm như thế. Lý do có thể chấp nhận được, lúc đó Dương Lăng mới sẽ không nghi ngờ chúng ta. Hơn nữa có làm như vậy thì toàn bộ chuyện này mới hoàn toàn không can hệ gì với ta. Cho dù Liễu cô nương ngày sau bị lộ đi chăng nữa, với công lao của ta và sự bảo hộ của Vũ Định Hầu, không có chứng cứ xác thực y sẽ không thể động được vào ta.

Đại pháp sư thở dài, nín lặng. Trương Dần giả như không nghe thấy, trầm ngâm một hồi lâu rồi chợt nhướng mày hỏi:

- Ngươi đã thu xếp ổn thỏa cho cô nương nhà họ Liễu rồi chứ?

Đại pháp sư cung kính đáp:

- Dạ rồi! Đệ tử đã sai người truyền đạt ý chỉ của giáo chủ cho cô ta. Có điều..., - đại pháp sư hơi thoáng chần chừ rồi nói tiếp, - Dù sao thì cô ta cũng là một thiếu nữ khuê các, muốn cô ta tự mình tình nguyện chung giường với một gã đàn ông xa lạ…, thật sự là làm khó cho cô ta. Theo hồi báo của người của chúng ta, tuy bị giáo lệnh ép buộc nên không dám kháng cự, song vẻ mặt cô ta có phần khác thường.

Trương Dần cười nhạt, vung tay áo bảo:

- Hừ! Hiến thân cho thánh giáo có gì mà phải do dự? Căn dặn người tiếp ứng tùy cơ mà hành sự, nếu ả không đồng ý thì bỏ thuốc vào trà của ả, đến lúc đó ván đã đóng thành thuyền, ta xem ả còn phản kháng thế nào!

Đại pháp sư kinh hãi can ngăn:

- Giáo chủ! Do thời gian gấp gáp nên không thể để cô ả và Dương Lăng gặp gỡ một cách tự nhiên, nay cưỡng ép cô ả đã rất không ổn, nếu lại bỏ thuốc vào sẽ càng khiến cô ả vì chuyện này mà sinh lòng oán hận. Đệ tử sợ rằng cho dù cô ả được gả vào nhà họ Dương đi nữa, e cũng sẽ không chịu hết lòng làm việc cho thánh giáo. Vậy há chẳng phải...?

- Ồ...

Trương Dần nghe xong bèn vuốt râu gật gù, cho rằng rất phải. Yên lặng trầm tư một chốc sau, mắt vụt loé lên vẻ ác độc, hắn hỏi:

- Cha của ả, Liễu Quang, hiện đang bị nhốt ở chỗ nào?

Tuy là tâm phúc của hắn song Đại pháp sư cũng không rõ ý tứ của Giáo chủ, bèn vội đáp:

- Phiên tử do Đông xưởng điều đến nơi này không nhiều, quan viên bị bắt lại nhốt chật lao ngục, tra khảo không xiết. Còn loại tiểu nhân vật như Liễu Quang thì bị nhốt trong đại lao của nha phủ, sai năm sáu phiên tử chỉ huy đám ngục tốt tra khảo.

Trương Dần cười thâm trầm hỏi tiếp:

- Trong đại lao của nha phủ có người của chúng ta không?

Đại pháp sư nghi hoặc đáp:

- Đại lao... nha phủ có mấy tên ngục tốt nho nhỏ đã được bản giáo thu nạp làm tín đồ, có điều chức vị thấp hèn, bình thường cũng không dùng được vào việc gì.

Trương Dần bật cười ha hả:

- Bình thường không dùng được vào việc gì, vậy bây giờ sẽ dùng chúng vào việc. Bảo bọn chúng ra tay giải quyết Liễu Quang. Một khi Liễu Quang chết trong tay quan phủ, ngươi còn lo Liễu Phi Vũ không tận tâm tận lực làm việc cho bản giáo hay sao?

Lúc này đại pháp sư mới hiểu rõ dụng ý của Giáo chủ. Đón lấy ánh mắt như ngọn lửa dữ dội của Trương Dần, lòng hắn không khỏi rét lạnh, liền vội hoảng sợ vâng dạ, không dám nói thêm câu gì.

Để mê hoặc dân chúng, giáo phái Bạch Liên không từ bất kỳ một thủ đoạn nào: tà thuật, bùa chú, kỳ tích, thầy mo, cầu tài, cầu tiên, đủ loại thủ đoạn. Để khống chế tín đồ, ban đầu phần lớn kỹ thuật được bọn chúng sử dụng là hù dọa dân đen về nghiệp chướng gì gì đó để dọa dẫm và đe nẹt. Song bây giờ đã bắt đầu vươn vòi đến tầng lớp trung thượng, thủ đoạn mỹ sắc cũng được bọn chúng sử dụng ngày một nhiều hơn.

Di Lặc giáo khổ tâm gầy dựng lâu năm. Mỗi khi có thiên tai, nhân họa khiến xuất hiện dân chạy nạn, bọn chúng đều tuyển chọn và thu nạp nam nữ thiếu niên đang chạy loạn gia nhập vào giáo phái, ra sức bồi dưỡng, còn tạo vỏ bọc chính đáng cho chúng. Những đứa trẻ này lớn lên đều hết sức trung thành với Di Lặc giáo. Nam thì tham gia vào mọi ngành mọi nghề, bán mạng cho giáo chủ, nữ thì dùng ra những cô gái có nhan sắc xuất chúng để quyến rũ thân hào địa chủ, rồi sau đó khống chế bọn họ.

Cách làm của Trương Dần tuy chậm chạm, phải mất mấy mươi năm mới có thể thấy hiệu quả, nhưng lại rất vững chắc. So với cách ban phát chút ơn huệ rồi lợi dụng thiên tai để lừa gạt dân chạy nạn tạo phản của bọn phản tặc Đường Tái Nhi và Từ Hồng Nho của Bạch Liên giáo năm xưa, thì thế lực ngầm mà phương pháp này đem đến lại lợi hại hơn gấp nhiều lần, và càng khiến quan phủ khó diệt trừ hơn.

Nếu không phải do Dương Lăng sắp phải hồi kinh khiến hắn không kịp điều những nữ pháp sư, tiên cơ hay thánh nữ được huấn luyện tự nhỏ chuyên dùng để mê hoặc đàn ông, thì hắn cũng sẽ không cần trưng dụng đến nữ tín đồ vẫn còn lòng tự trọng và không đáng quá tin cậy như Liễu Phi Vũ.

Thấy tâm phúc của mình cũng hơi lộ vẻ bất nhẫn và chùn lòng, Trương Dần mở miệng định an ủi nhưng không biết phải nói gì, bèn khoát tay bảo hắn lui xuống truyền lệnh. Hắn vừa đi khuất, Trương Dần mới uể oải ngả lưng ra sau, dựa người vào tấm tựa lưng ấm áp bằng vải nhung lạc đà, nhắm mắt thở dài.

Hắn nào muốn khiến con mình sinh lòng phẫn uất, nào muốn khiến cho tín đồ tâm phúc theo mình lâu năm sinh lòng cảnh giác và dè chừng! Nhưng không ngồi ở vị trí của hắn, bọn họ làm sao biết được vị giáo chủ trông như thần thông quảng đại không gì không thể làm mấy năm qua đã phải dốc hết tâm huyết, trút cạn tinh lực ra sao, chịu phải biết bao áp lực nặng nề như thế nào?

Lúc Bạch Liên giáo bị tan rã, cha hắn bị người phe mình chém đầu, cậu thì bị quan phủ thiêu sống, toàn bộ anh em và vợ con đều bị xử trảm. Bao lần gặp phải trắc trở, thất bại, bao lần bị đàn áp đẫm máu, lòng hắn đã sớm trở nên sắt đá.

Là quân tử thì không câu nệ tiểu tiết, không tàn nhẫn thì không phải là trượng phu (“Lượng tiểu phi quân tử, vô độc bất trượng phu”). Công việc mình làm nguy hiểm mất mạng như chơi, sao mình có thể không cẩn thận từng li từng tí như đang đi trên lớp băng mỏng chứ? Cứ lòng dạ đàn bà thì sao có thể làm được việc lớn? Khổ tâm gầy dựng lâu năm, nay thế lực đã phát triển lớn đến như vậy, cho dù cả đời mình không thể thay đổi triều đại, mình tin rằng triều đình cũng không thể thanh trừ hết giáo chúng trung thành của mình rải khắp từ nam ra bắc. Rốt cuộc sẽ có một ngày con cháu mình có thể trở thành hoàng đế, thiên hạ rồi sẽ trở thành thiên hạ của nhà họ Lý. Vì ngày đó, cho dù có phải thí bỏ nhiều mạng người hơn nữa mình cũng sẽ không nuối tiếc; huống chi chỉ là một ả đàn bà thì có xá gì?

Nghĩ đến đây, một nụ cười ác độc thoáng hiện bên khóe mép Trương Dần. Hắn ngồi thẳng lưng lại, ánh mắt khôi phục vẻ tinh khôn, lãnh đạm, chỉ còn sự đam mê quyền lực cháy bỏng. Hắn nhất định phải phấn chấn tinh thần. Nhờ Cốc Đại Dụng, đêm nay hắn sẽ chiếm được lòng hàm ơn của hơn trăm vị quan viên lớn nhỏ, đồng thời sắp đặt được một nữ thần báo tin bên cạnh kẻ bầy tôi được tin yêu nhất của hoàng thượng.

Hắn chợt mỉm cười, một nụ cười vui sướng: trước kia mình thật ngốc xiết bao, tại sao lại tìm cách giết y chứ? Chỉ cần một câu nói của y liền có thể cứu vớt an nguy cho vạn giáo chúng của mình, đẩy mấy vạn quân Minh vào địa ngục. Có một kẻ như vậy, tại sao không khéo lợi dụng cho tốt?

*****

Bên trong trạch viện rộng lớn của Vương Long, bụi bám khắp nơi, âm u lạnh lẽo. Trước đây, nơi này vốn là cơ ngơi của đệ nhất phú hào Đại Đồng, hàng đêm vang tiếng sênh ca, rượu gái tràn trề, thế mà chưa tới một tháng đã trông như bị bỏ hoang phế lâu năm.

Ánh trăng từ ngoài cửa sổ chiếu vào phòng, phảng phất như một dải sương trong.

Thôi Oanh Nhi nhẹ bước đi lại trong căn phòng rộng rãi trống trải như một âm hồn trong bóng tối...

Vinh hoa phú quý chẳng qua là mây khói thoảng qua, thanh danh hiển hách cũng chỉ là đầu đề câu chuyện trong miệng người ta sau khi chết đi. Hoàng đế đánh bại Bá Nhan dưới núi Bạch Đăng, Cốc Đại Dụng lục soát khắp doanh trại, bắt giam quan viên vô số. Những chuyện này được bá tánh truyền tụng, thêm thắt say sưa, còn chuyện của Vương Long như thể đã quá trăm năm, thậm chí tửu khách quen trong "Hâm Thịnh Lâu" và "Thái Bạch Cư" cũng đã lười nhắc tới.

Nghe nói sắp tới Hoàng thượng sẽ cho mở chợ buôn bán toàn diện, như vậy triều đình sẽ không cần ép buộc bá tánh Bá Châu phải nhà nhà đều nuôi ngựa nữa. Bá tánh sẽ có thể trồng trọt, có thể buôn bán với người dân quan ngoại để kiếm tiền. Loại hoa màu mới mà Dương Lăng nói đó nếu thật sự có thể nhân giống trồng trọt, cuộc sống của bá tánh sẽ tốt hơn nhiều. Dương Hổ cứ mãi u mê không chịu giác ngộ, rốt cuộc là muốn làm gì? Ôi, chỉ mong lần này hắn có thể thật sự chuyển ý hồi tâm...

Thôi Oanh Nhi đang khẽ thở dài, bỗng chợt xoay người. Một tiếng "cheng" ngân lên, trường kiếm giắt hông nàng đã đâm thẳng về phía cửa sổ.

Hoắc Ngũ Gia nhảy vào nhẹ nhàng như một con báo, thấp giọng gọi:

- Oanh Nhi! Ta đây!

- Ngũ thúc!

Thôi Oanh Nhi vội vàng thu kiếm, bước tới chào đón.

Hoắc Ngũ Gia hớn hở:

- Oanh Nhi, cơ hội đến rồi. Hôm nay Trương Dần, chỉ huy sứ Thái Nguyên, đãi tiệc mời Dương Lăng, đã bao cả “Diễm Vân Lâu”, có hơn trăm quan viên văn võ tham dự.

Thôi Oanh Nhi thoáng ngẩn người, hỏi lại:

- Thế sao lại là cơ hội được? Mấy ngày nay Dương Lăng thù tạc các nơi, những nơi mà y đến dự đều có hộ vệ như mây. Nay có hơn trăm viên quan tụ tập, phòng vệ há chẳng càng thêm nghiêm ngặt sao?

Hoắc Ngũ Gia cười đáp:

- Với hơn trăm thân binh và hộ vệ bảo vệ nơi ấy, nào ai ngờ được sau bấy lâu yên tĩnh sẽ có người vào đúng lúc này, ngay chốn tụ tập đông đảo thị vệ như vậy lại dám xông vào giết người? Cho nên nhân số tuy đông, nhưng phòng vệ ắt sẽ lơi lỏng. Vả lại, chính bởi có hơn trăm tên quan viên, tùy tùng của các bên rồng rắn lẫn lộn, không ai biết ai, chúng ta mới dễ lợi dụng cơ hội.

Danh kỹ trong “Diễm Vân Lâu” rất đông đảo. Đêm nay ăn uống lại có kỹ nữ hầu rượu, phần đông bọn chúng sẽ ngủ lại qua đêm, đến lúc đó, nha hoàn, tì nữ và thị vệ nô bộc lui tới như thoi đưa. Bên ngoài tửu lâu có lẽ còn hơi khó vượt qua, song một khi đã trà trộn được vào trong tửu lâu, chúng ta cứ nghênh ngang mà đi, ai biết chúng ta vào làm gì chứ?

Thôi Oanh Nhi thoáng giật mình, một nỗi lo lắng mơ hồ dâng lên trong lòng. Giữa nơi hỗn loạn đó không chừng sẽ thật sự có cơ hội thể hành thích được y. Khi ấy nếu lại nói dối là mình sẩy tay, Ngũ thúc tuy già nhưng mắt chưa mờ, há sẽ không nhìn ra được hay sao?

Nàng bèn ấp úng phản bác:

- Ngũ thúc! Lúc này đang là lúc đêm, cửa thành đang có cấm lệnh, trên thành binh lính đi tuần không ít, một khi động thủ chúng ta sẽ khó bề chạy trốn. Hay là... hay là chờ tìm cơ hội khác vậy.

Nói xong cảm thấy hai má mình hơi nong nóng, nàng bèn vội đánh lảng sang chuyện khác:

- Thúc đã mua đồ ăn về chưa? Oanh Nhi hơi đói rồi.

Hoắc Ngũ Gia liếc nhìn nàng với vẻ nghi hoặc. Lợi dụng kẽ hở giữa đám tuần binh mà lặng lẽ trốn lên tường thành, với thân thủ hai ta há có thể bị bọn lính đó phát hiện? Sau đó lại dùng móc câu để trốn ra khỏi thành, bọn chúng biết tìm bắt chúng ta ở đâu? Xưa nay Oanh Nhi làm việc luôn rất lớn mật, sao giờ lại...

Lão thấy nghi hoặc trong lòng song không tiện hỏi. Nghe bảo đói bụng, lão bèn lôi từ trong ngực ra một bọc gói lá sen, bên trong là tấm bánh bao nhân thịt vẫn còn nóng hôi hổi, đưa cho Thôi Oanh Nhi. Thôi Oanh Nhi vờ như đang rất đói, vội vã bước qua một bên, mở bọc lá ra ăn.

Khi quan phủ niêm phong Vương phủ, mọi đồ vật quý giá đều bị dọn sạch nhưng chăn mền và vật dụng thông thường vẫn chưa bị xử lý, do đó việc nghỉ ngơi buổi tối của hai người cũng không thành vấn đề. Bầu trời chìm sâu vào trong bóng tối, Thôi Oanh Nhi ngồi xếp bằng trên đầu giường, nhớ lại ánh mắt nhìn mình một cách kỳ dị của Ngũ thúc, nàng chợt có cảm giác như ngồi phải bàn chông. Khó trách Dương Hổ nói bậy nói bạ, hóa ra Ngũ thúc cũng thấy mình như vậy...

Nàng mím môi ngưng vận công, bó gối mơ màng nhìn ánh trăng mờ xuyên qua song cửa sổ, ngơ ngẩn: " Chẳng qua mình chỉ không muốn giết lầm một viên quan tốt mà thôi. Hơn nữa hiện nay các giống lương thực mới vừa được đưa vào sử dụng lẫn việc thông thương mở chợ đều nhờ Dương Lăng dốc sức thúc đẩy. Người này quả thực là chân quân tử bụng nghĩ sao miệng nói vậy. Nếu như bá tánh đã có đường sống, chúng ta còn phải tạo phản làm gì? Ôi! Mình nào... nào có tư tình gì với hắn?"

Đêm khuya tĩnh lặng, ánh trăng như nước, khiến người ta dễ chìm vào suy nghĩ mông lung. Thôi Oanh Nhi bất chợt nhớ lại cảnh tượng bị Dương Lăng ôm choàng, bám chặt vào mông trong hang động trên núi Bạch Đăng, chợt thấy mông hơi ngưa ngứa; nụ hôn thoáng qua môi nọ, cái cảm giác tê dại đó dường như vẫn còn vương vấn trong lòng...

Thôi Oanh Nhi chợt giật mình tỉnh lại, thầm tự mắng một hơi, cảm thấy gò má nóng bừng, xấu hổ không chịu nổi, bèn nằm xuống kéo chăn trùm kín mặt lại. Nhưng càng không muốn nghĩ đến, hình ảnh thân mật nọ lại cứ hiện lên, lòng càng bồi hồi. Nàng bèn thở dốc, bực bội ngồi dậy, ngẩn ngơ một hồi rồi lặng lẽ khoác quần áo vào, định ra ngoài hành lang dạo bộ một chút.

Hoắc Ngũ Gia ở trong phòng kế bên. Sợ đánh thức lão, Thôi Oanh Nhi rón rén bước ra khỏi phòng, đi tới bóng khuất nơi cây cột hành lang to tầm một người ôm. Đang ngắm trăng đến xuất thần, chợt qua khoé mắt nàng cảm giác như có một bóng đen từ đầu tường đằng xa vụt lướt qua như chim ó.

Thôi Oanh Nhi vụt liếc sang, bóng đen đó vừa vặn biến mất ngoài bức tường, nhưng nàng cũng kịp nhận được một bóng người vừa vượt tường nhảy ra ngoài. Thôi Oanh Nhi giật mình thất kinh: "Thám tử? Có người đã phát hiện ra chỗ ở của chúng ta?"

Nàng tức tốc xoay người, gõ nhẹ cửa sổ phòng Hoắc Ngũ Gia, giọng cấp bách:

- Ngũ thúc! Ngũ thúc! Con Oanh Nhi đây, mau mở cửa!

Trong phòng vẫn lặng ngắt như tờ, Thôi Oanh Nhi cả kinh: "Ngũ thúc là người từng trải, sao lại ngủ say đến vậy? Chẳng lẽ..."

Nàng phóng tới trước cửa phòng, một tay che mũi, nín thở, tay kia chụm lại như đao chém nhẹ xuống cửa. Một chưởng ẩn chứa nội lực này vốn có thể bổ gãy chốt chắn cửa mà không gây nên tiếng động quá lớn, nào ngờ cửa chỉ khép hờ, hai cánh cửa bung sầm sang hai bên khiến Thôi Oanh Nhi hơi giật mình.

May mà lạc viện này khá lớn, chung quanh không có hàng xóm nào bị kinh động. Khẽ ngửi nhẹ, thấy trong phòng thoang thoảng hương hoa mai song lại không giống mê hương, nàng bèn lập tức lắc người vút vào, đứng ở một nơi khuất bóng, nín thở cảnh giác. Một lúc sau, thích nghi với bóng đêm trong phòng, thấy trong phòng không có người, nàng khẽ gọi:

- Ngũ thúc?

Không có tiếng trả lời, Thôi Oanh Nhi lần mò tới trước giường Hoắc Ngũ Thúc. Dưới ánh sáng lờ mờ phát hiện thấy trên giường không có người, nàng bèn tìm nến đốt lên, lấy tay che ánh sáng bước tới trước giường quan sát. Chăn mền vẫn chỉnh tề, trên giường đốt một cây nhang vòng khá lớn, cuối đuôi nhang buộc một sợi dây lụa bắt chéo qua tấm màn quấn lên nóc giường.

Thôi Oanh ngước đầu nhìn, trên nóc màn bắt nghiêng một chiếc ghế, một chân ghế chống trên nóc màn, phần còn lại treo lơ lửng trên không trung bởi sợi dây lụa nọ. Khi nhang cháy hết, sợi dây lụa dễ cháy sẽ bén lửa, đứt ngang; chiếc ghế ắt sẽ rơi xuống đất.

Nàng búng người lên, tháo ghế xuống, trên mặt ghế vạch nghuệch ngoạc mấy nét. Đó là một hình vẽ cổ quái do ngón tay khắc nên, là ám hiệu của sơn tặc dùng để báo tin. Vừa liếc nhìn Thôi Oanh Nhi liền biết Ngũ thúc bảo nàng trông thấy ám hiệu thì cứ ẩn náu tại chỗ hoặc lập tức rời thành. Thôi Oanh Nhi tức giận giậm chân: Ngũ thúc đi giết Dương Lăng rồi!

Giờ phải làm sao đây? Thôi Oanh Nhi mím môi, cảm thấy tiến thoái lưỡng nan, lòng dạ rối bời. Ngũ thúc đơn thương độc mã xông vào tửu lâu, liệu sẽ có thể an toàn rút lui được hay không? Nếu như Dương Lăng được bảo vệ không chu đáo, thật sự bị thúc ấy giết chết thì biết làm thế nào? Một kẻ là người mà nàng không hề muốn giết, một kẻ lại là người mà nàng tuyệt đối không muốn chết. Bực bội trong lòng, Thôi Oanh Nhi bèn giậm mạnh chân phóng ra khỏi phòng, đuổi theo hướng bóng đen biến mất vừa rồi.

*****

Bầu trời trên cánh đồng tuyết dày đặc những ngôi sao li ti. Trời đêm đã trở nên rét buốt nhưng tất cả binh sĩ trong doanh trại vẫn đứng nghiêm, bất động trong tuyết. Thân binh chấp pháp cầm đuốc đứng vây quanh viên quan đô ty, ánh lửa đỏ rần.

- Bà mẹ nó! Các ngươi muốn ra oai phủ đầu với bản quan à?

Tay cầm roi ngựa vấy máu, Mã đô ty sải chân tới trước đội ngũ quát mắng. Trên chiếc giá gỗ giữa hai đống lửa dựng đằng trước đám quân binh hàng ngũ chỉnh tề có sáu binh sĩ mình trần trùng trục đang bị treo lơ lửng. Máu tươi đông lại trên thân bọn họ thành từng vệt thâm sì, môi tím ngắt vì lạnh.

- Sao hả? Mạnh đô ty có quan hệ mật thiết với gian tế Lý Nghĩa của Di Lặc giáo, rất có thể cũng là phản tặc, chẳng lẽ các ngươi cũng là đồng lõa của hắn hay sao? Hừ! Bản quan mới vừa nhậm chức, các ngươi đã dám khinh nhờn, còn tung tin đồn nhảm, bôi nhọ thượng quan! Ai nói ông đây là lính hậu phương chưa từng đánh trận, không có bản lĩnh chỉ huy đám hùng binh các ngươi hả? Ông khinh! Các ngươi có biết quân pháp hay không?

Tên đô ty họ Mã mới nhậm chức ngạo nghễ chỉ tay vào một tên sĩ tốt đang lạnh run bần bật quát:

- Ngươi! Bước ra khỏi hàng! Trong quân có mười bảy lệnh cấm, năm mươi tư điều chém, mỗi một điều đều là tội lớn phải chém đầu. Nói ông đây không biết cầm binh hả? Ông đây thuộc làu binh pháp, sao lại không biết cầm binh? Ngươi nói đi, điều thứ mười bảy trong mười bảy lệnh cấm là gì?

Tay lính trơn nọ choáng váng cả người, ấp a ấp úng:

- Đại... đại... đại nhân! Tiểu nhân... Cái đó...

Mã đô ty quất vèo một roi, tên tiểu binh bị roi quất trúng giật nảy người, trên gò má liền xuất hiện một vệt máu. Mã đô ty lại quát lớn:

- Bản tướng gọi ngươi bước ra khỏi hàng, tại sao không báo danh với bản tướng? Điều thứ mười bảy trong mười bảy điều luật lớn là thấy địch mà không xét rõ, dò thám mà không kỹ càng, đến mà không báo là đến, có nhiều mà bảo là ít, có ít lại bảo là nhiều, chém! Biết chưa?

Đến mà không báo là đủ để bản tướng chém đầu ngươi rồi, cút về đi!

Tay tiểu binh lảo đảo chạy về hàng, máu chảy ròng ròng trên má song lại không dám lau. Mã đô ty trông thấy một tay lính trọng tuổi hơi bĩu môi bèn gọi:

- Ngươi, bước ra!

- Dạ! Ti chức Phùng Đại Phú, xin đô ty ban bảo!

Tay lính từng trải nọ dửng dưng bước ra khỏi hàng, ngang nhiên báo cáo.

- Ồ! - Mã đô ty mỉm cười, gật đầu chế giễu - Ừm, là bả tổng à? Nghe nói lần này ngươi truy đuổi quân địch rất ư là dũng cảm, một tay chém đầu mười bảy thủ lĩnh quân địch đem về nộp, mới vừa được Mạnh đô ty đề bạt làm bả tổng phải không? Bản quan hỏi ngươi, điều bốn trong mười bảy điều lệnh là gì?

Tay lính nọ thoáng do dự, rồi ngang ngạnh đáp:

- Ti chức chỉ biết ra trận giết giặc, anh dũng xông pha! Ti chức không biết chữ nghĩa, không nhớ nổi quân luật!

- Vút!

Lại một roi nữa được quất ra. Tay lính cả giận, trừng mắt quát lại:

- Ông đây ra trận giết giặc, có thể đổ máu, có thể bán mạng! Ta chưa từng vi phạm quân pháp, cớ gì đánh ta?

Mã đô ty lại vụt tiếp một roi, song bị tay lính chụp lấy đầu roi. Mã đô ty cố sức giật lại nhưng giật không nổi, gã bèn cười gằn bảo:

- Điều thứ tư trong mười bảy điều là: buông lời oán thán, căm hận chủ tướng mình, bất tuân quân lệnh, thay đổi giáo điều, chất vấn pháp chế, đó gọi là chia rẽ lòng quân, kẻ nào vi phạm, chém! Ngươi dám nói những lời như vậy với bản quan? Người đâu, bắt lại cho ta, đánh cho mạnh vào!

Mấy tay thân quân xông lên đè viên bả tổng nọ xuống, lôi hắn trói lại treo lên giá gỗ, quất roi vùn vụt lên người. Trên thân thể tráng kiện vốn đã chi chít sẹo của tay lính lão làng giờ lại có thêm những vết thương mới, máu tươi chảy ròng.

Trút giận xong, Mã đô ty quay lại cười lạnh với đám binh sĩ đang đứng im như thóc, đe nẹt:

- Ông đây sớm biết cái đám lính lười nhác các ngươi chuyên bắt gà trộm chó, không việc xấu nào không làm. Toàn bộ đều là một đám lưu manh vô lại. Hừ! Bản quan mới tới nhậm chức, muốn phủ đầu bản quan để ra oai phải không?

Bản quan là thượng cấp trực tiếp của các ngươi. Muốn đối chọi với bản quan ư, để xem ai trị được ai?

Cút về ngủ hết cho ta, hôm nay bỏ cơm tối. Sáng sớm mai bản quan ra lệnh tập trung sớm, nếu không còn gây sự, xoi mói nữa thì mới có cơm ăn. Giải tán!

Đám binh sĩ lẳng lặng không nói gì, từng tốp một kiềm nén lửa giận trong lòng kéo nhau trở về lều trại. Mã đô ty cười khà khà, liếc xéo mấy tay lính vô lễ bị treo trên giá, cả tiếng dặn dò:

- Người đâu, nấu cho bản quan con gà! Đem vào trong lều coi!

Nói đoạn, gã xoay người bước vào trong lều.

- Cẩu quan!

Đằng xa có người thừa lúc tối trời mắng nhỏ một tiếng, liền đó gã bị chiến hữu đưa tay bịt miệng, kéo vội vào trong lều.

- Cẩu quan!

Vào lúc này, Liễu Phi Vũ cũng đang mắng chửi:

- Đồ vô sỉ! Đã bắt cha ta lại còn muốn ta phải hầu hạ mới chịu... mới chịu thả người. Triều đình này thật đáng bị diệt vong!

Tiểu thư nhà họ Liễu mặc một chiếc áo bông nhỏ nhắn sát thân màu xanh lông vẹt, bên ngoài khoác một áo chẽn da cá đuối màu đen, lưng thắt một dải lụa hồng, dưới mặc một chiếc váy màu xanh nhạt, trang điểm tuy nhạt mà nền nhã, nước da trắng mịn, trên môi phơn phớt lông măng, rõ ràng vẫn còn là một thiếu nữ trong trắng mười sáu mười bảy. Thêm vào mày đậm khẽ nhíu, sóng mắt nhìn nghiêng, trông đẹp đến say đắm lòng người.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.