Ta Làm Đầu Bếp Ở Hiện Đại

Chương 8




Tộc Người Merromal

Tiếng nhốn nháo đã khuấy động bà Pike. Giật mình ngồi bật dậy, bà ngơ ngác. “Chuyện gì thế hả?”

“Con chó của Benjamin rơi xuống sông, bác Pike à,” Olivia bảo. “Giờ Benjamin đang chạy đi tìm nó.”

“Dưới đó ư?” bà Pike thừ ra nhìn những bọt sóng trắng xóa sủi ùng ục trên dòng nước. “Nó chết đuối mất, thằng bé tội nghiệp.”

“Bạn ấy có óc xét đoán mà,” Olivia trấn an bà. “Ít nhất chúng ta đã an toàn rồi. Dạ, chỉ còn một quãng nữa thôi, là chúng ta tới nơi.”

Charlie nghĩ Benjamin an toàn. Tuy nhiên mẹ của Asa cần được giúp đỡ hơn bất kì ai khác.

Bà Pike cố nhảy cà nhắc nốt quãng đường còn lại qua cầu, nhưng phải vịn vô cánh tay Charlie để leo những bậc thang lên đường cái.

“Charlie Bone, có ánh sáng ở trên đầu cậu,” bà Pike nói khi họ lên tới đỉnh dốc.

“À phải, cây đũa phép của cháu đó. Đúng ra nó từng là đũa phép của cháu. Nó đã tỏa sáng để giúp chúng ta băng qua cầu.”

“Đũa phép…” bà Pike nói xa xăm. “Thật hữu ích.”

Lối dẫn vô thành phố hẹp tí, có hai hàng cây cao lằn hai bên. Một khi lên tới đường Đồi Cao thì chỉ còn một quãng ngắn là tới quán Cà Phê Thú Kiểng.

Thành phố sáng hôm đó lờ đờ. Sương mù đặc quánh và lạnh, không ai chú ý hai đứa trẻ và một người khập khễnh, mặt giấu kín trong mũ trùm đầu. Bà Pike không đi nhanh được như ý Charlie, nhưng cuối cùng họ cũng rẽ vô con hẻm rải sỏi tên là hẻm Ếch.

Đứng ở mé đầu hẻm Ếch, quán Cà Phê Thú Kiểng trông cổ kính. Không ai biết nó tọa lạc ở đó bao lâu rồi, bởi vì nó được xây hẳn vô bức tường dày đã chín trăm năm tuổi. Phía trên cửa sổ treo một tấm biển vẽ lổn ngổn lông, móng vuốt, đuôi và cánh. Ai không mang theo thú cưng đều không được phép vô quán. May sao, Charlie quen thân với ông bà chủ.

Giờ là 10 giờ. Quán thường mở cửa lúc mười rưỡi. Charlie nhấn chuông. Dĩ nhiên, không có lời đáp. Chủ quán, ông bà Onimous không thích khách đến sớm. Họ sẽ mở cửa theo đúng nguyên tắc.

Charlie nện thình thình vô cửa sổ, kêu inh ỏi. “Cứu với, ông Onimous, nhanh lên, làm ơn!”

Bà Pike khẽ rên một tiếng rồi chìm nghỉm xuống đất.

“Ông Onimous, nhanh nhanh lên,” Charlie gào. “Có một tai nạn.”

Cánh cửa mở ra đột ngột và một ông hộ pháp, áo len vàng, đứng ngó chòng chọc xuống bọn chúng và rống om. “Bọn bay biết là quán không mở tới chừng nào mười rưỡi cơ mà.”

Đấy là Norton Cross, người gác cửa, hoặc vệ sĩ, như cách Charlie hay gọi. Bổn phận của Norton là ngăn không cho kẻ không có thú vô trong quán.

“Đây là trường hợp khẩn cấp, chú Cross,” Olivia kêu lên.

Norton khoanh tay lại trước ngực. “Thú cưng đâu?”

Charlie không đáp.

“Ta nghĩ chú mày gọi con bướm đó là thú cưng,” Norton nói.

“Ừm…” Charlie ú ớ.

“Có một con trên đầu chú mày,” Norton nói.

“À đúng. Thú cưng của cháu đó,” Charlie đồng ý.

“Còn cô?” Norton hỏi Olivia.

“Chú làm mất thời gian rồi,” Olivia bực bội. “Cháu không có…”

Vừa lúc đó có một tiếng rên từ dưới đất vọng lên. Bà Pike đứng dậy trên bốn chân và bò tới trước. Bà ngước nhìn Norton. Anh ta lùi bắn lại, cứng hàm luôn.

“Thì vô đi,” mãi rồi anh ta mới lảm nhảm.

Olivia và Charlie giúp bà Pike đứng dậy và khó nhọc lôi bà vô quán. Thở hồng hộc, bà buông xuôi để được lái đi qua quán, quành qua quầy và vô nhà bếp.

“Có khách,” Norton vừa thông báo vừa kéo giạt tấm rèm đằng sau quầy.

Gian bếp ấm cúng nhà Onimous bao giờ cũng tiếp thêm tinh thần cho Charlie. Đây chính là nơi ba con mèo tá túc khi chúng không ra ngoài thực hiện những phi vụ quan trọng. Không có vết tích gì cho thấy chúng được gọi là những con mèo lửa. Hôm nay cả ba đang ngủ trên nóc tủ, ba cái đuôi dày sáng rực thòng xuống bên hông thành hình những dấu chấm hỏi ngược. Một con màu vàng, một con màu cam và một con màu đồng đỏ.

Ngay cả ông Onimous cũng có nét hao hao giống thú. Người nhỏ thó, tròn trĩnh, rậm lông, răng sắc, và móng tay dài nhọn hoắc, ông gợi trong tâm trí người ta về một loài gặm nhấm cuộn mình thu lu. Còn về vợ ông, bà Onimous đối nghịch hoàn toàn với chồng. Bà cao xấp xỉ hai mét, tóc lưa thưa, có cái mũi dài chưa từng thấy ở con người nào.

Khi người không-hẳn-là-người tập tễnh đi vô nhà bếp của họ, gia đình Onimous không hề động đậy một sợi lông. Với họ, bà chỉ là một sinh vật tội nghiệp nữa, rõ ràng là đang cần trợ giúp.

“Ngồi xuống đây, xin mời,” bà Onimous kéo một chiếc ghế ra cho vị khách của mình.

Bà Pike ngồi chìm trong ghế, thở phào ra và gục đầu xuống bàn.

“Chúng ta có rầy rà gì đây?” ông Onimous hỏi.

Olivia đáp, “Bác đây được gọi là bác Pike. Bác ấy bị trật mắt cá. Nhưng tụi cháu cần sử dụng điện thoại của ông, ông Onimous. Rất khẩn cấp. Hạt Đậu đã chết đuối và Benjamin đang đi tìm nó.”

“Dòng sông dâng lên,” Charlie thêm. “Cao tới tận cầu. Coi chừng Benjamin cũng chết đuối luôn. Và cháu nghĩ có lẽ mình nên trở lại tìm bạn ấy.”

“Chao ơi! Hãy cứ chờ đây, Charlie Bone.” Bà Onimous chạy tới điện thoại của quán cà phê. Charlie và Olivia có thể nghe thấy tiếng bà cao giọng lác quác trong khi chúng đứng chờ, bồn chồn ở hai bên bà Pike.

Chưa đầy một phút sau, bà Onimous trở lại, vẻ lo lắng. “Cảnh sát nói không có báo cáo nào về dòng sông dâng cao cả. Thật ra cảnh sát Singh còn để ý thấy nước cạn chưa từng thấy khi ông ta qua cầu sáng nay. Và nếu có một thằng bé tìm chó thì đấy là việc của nó. Cha mẹ nó phải báo cáo nó mất tích thì cảnh sát mới ra tay làm gì đó.”

“Sông dâng cao mà,” Olivia tức giận. “Nước tràn qua chân cháu. Giày cháu vẫn còn ướt đây nè. Cháu đã thấy nó… trừ phi…”

“Dagbert-kẻ-dìm-chết-người,” Charlie nói khẽ.

Olivia trố mắt nhìn nó, kêu to: Dagbert!

“Bọn nhỏ, cởi giày ra và đọc bên lò đi,” ông Onimous bảo, “Xong rồi ngồi xuống nói cho ta biết về người phụ nữ tội nghiệp này.” Ông gật đầu với bà Pike.

Charlie và Olivia tháo giày và vớ ướt ra, đem đặt bên bếp lò. Nhưng khi ngồi xuống Charlie không sao giải thích rành mạch với ông bà Onimous về những gì đã xảy ra. Nó thắc thỏm lo sốt vó cho Benjamin. Vì vậy nên Olivia là người kể lể dài dòng về Asa bị giam hãm, đội đi săn và phát súng bắn chết ông Pike.

“Quân sát nhân!” bà Onimous phẫn nộ. “Chỉ vì người ta…” bà liếc mái tóc đỏ, thô cứng của bà Pike, “là người lạ, thật vô căn cứ. Dù là ai hay là cái gì, giết người vẫn là giết người.”

“Cháu đồng ý,” Olivia tán thành. “Nhưng cháu không nghĩ bác Pike muốn ra tay hành động, kiện cáo hay bà gọi là gì cũng được. Cháu thì cháu nghĩ bác ấy không muốn bị nhìn thấy.”

Ông Onimous nhẹ nhàng vỗ vai bà Pike. “Giờ bà đang ở bên những người bạn. Chúng tôi sẽ làm những gì có thể cho bà. Có một phòng ấm áp ở bên trên quán. Bà cứ đến đây chừng nào bà muốn. Chúng tôi sẽ tìm kiếm con trai bà, nếu cậu ấy vẫn…”

Bà Onimous lườm chồng và lắc đầu lia lịa.

“Tôi cho là bọn chúng đã giấu cậu ấy ở nơi tối tăm nào đó và…” ông Onimous nhăn mặt, đưa tay lên bịt mồm, cơ hồ vừa bật ra một ý nghĩ. “Ối trời ơi, tôi tự hỏi…”

“Ông biết anh ấy ở đâu à?” Charlie hỏi.

“Nói cho tụi cháu đi,” Olivia hét to.

“Không thể được, các cháu. Phải cân nhắc đã.” Ông Onimous ngồi xuống và xoa xoa cái cằm râu ria của mình.

Những lời của ông có tác động đến bà Pike. Bà ngóc đầu lên, nhìn quanh mọi người, đôi mắt vàng khấp khởi hy vọng. “Nó, Asa của tôi, có thể được cứu?”

“Có thể, bà à,” ông Onimous nói chắc chắn. “Nào, bây giờ bà nói gì đó về bà cho chúng tôi biết đi – làm sao bà tới thành phố này? Thứ lỗi cho tôi, nhưng dường như bà là người lạ ở đây.”

“Đúng thế,” bà Pike chắp hai tay lại với nhau, “Làm ơn cho tôi chút nước.”

“Ối, đầu óc tôi nghĩ đi đâu thế này?” bà Onimous vội phóng tới ấm nước. “Bà uống trà thảo dược nhé, một loại thức uống hồi tỉnh. Và bánh nhân hạt, có lẽ là nho khô nghiền và gia vị tăng lực.”

“Tôi cũng định đề nghị thế đấy,” ông Onimous nói, lấy một cái ly từ tủ bếp. “Nhưng trước tiên, hãy uống chút nước đã.”

“Và một ít đậu đông để chườm mắt cá?” Olivia đề nghị.

“Đậu đông. Ta thấy cháu cũng biết dăm ba điều rồi đó, Olivia.” Ông Onimous đặt ly nước trước mặt bà Pike, sau đó moi trong tủ đông ra một túi đậu.

Trong khi bà Pike được chăm sóc, Charlie đứng dậy. Benjamin vẫn lấn cấn trong tâm trí nó. Ai đó phải đi tìm Benjamin. Nhưng khi Charlie vừa ra cửa, bà Pike bắt đầu nói, giọng khều khào, kéo nó quay lại. Rồi hầu như vô thức, nó thấy mình đã ngồi xuống trở lại, và lắng nghe một câu chuyện lạ thường.

Lời lẽ tuôn ào ạt khỏi miệng bà Pike như thể bà đã kìm nén suốt bao năm rồi, chỉ chực chờ đến lúc có thể kể về gia đình mình, và về cái nơi kì lạ mà từ đó bà đến đây. “Chúng tôi sống ở nơi mà người ta gọi là chốn bị nguyền rủa, những khu rừng, hít thở với những bí mật trong không khí. Tất cả bắt nguồn từ Cafall-Hóa-Thú. Ngài là một trong những người con của Vua Đỏ - người con độc ác ấy. Nhưng Cafall đã cải tà quy chính, các vị biết rồi đấy, một cách hoàn toàn đột ngột. Chính vào một trong những lúc bất thần hoàn lương, ngài đã trốn chạy khỏi lâu đài. Quỷ sứ đang sống ở đó và ngài không thể chịu đựng thêm được nữa. Thành thử, ngài dong buồm ra khơi và tình cờ tìm thấy vùng đất Merromal. Merromal là một dân tộc những người giống như tôi.” Vầng trán nặng bì bì của bà Pike hơi nhích lên, và bà nhăn mặt nhếch ra nụ cười. “Không phải tất cả người Merromal trông đều giống như tôi và ông Pike. Một sự cuốn hút lẫn nhau đã kéo chúng tôi lại với nhau.”

“Rồi Cafall cưới một cô vợ người Morromal, và họ sinh ra một người con trai. Đấy chính là khi sự thay đổi bắt đầu. Đứa trẻ là một cậu bé vào ban ngày, nhưng đến tối lại là một con thú. Việc cứ thế kéo dài, thế hệ này qua thế hệ khác.”

Bà Pike húp soàn soạt mấy ngụm trà thảo dược. Rõ ràng bà có nhiều điều nữa để nói, và những khán giả háo hức vẫn im lặng, chờ bà nói tiếp. Charlie lịch sự cúi nhìn xuống khi hàm răng khổng lồ của bà ngoạm vô chiếc bánh nướng nhân hạt, nhưng Olivia không kìm nổi cái nhăn mũi.

“Thật mát lòng mát dạ khi được lắng nghe chăm chú,” bà Pike phủi vụn bánh khỏi cằm và tiếp. “Tôi sẽ kể cho các vị nghe về gia đình tôi.”

“Xin vui lòng,” ông Onimous gật đầu sốt sắng.

“Chúng tôi đưa con trai mình đến vương quốc này cách đây mười lăm năm. Người Merromal không giỏi đi đó đây, nhưng chúng tôi, ông Pike và tôi, khao khát muốn thấy nhiều hơn nữa về thế giới mà tất cả chúng ta đang sống. Tôi nghĩ các vị hẳn là đang thắc mắc, với học vấn của mình thì làm sao chúng tôi đến đây được…” Bà nhìn quanh bàn, nhưng không ai thừa nhận ý nghĩ như vậy vừa sượt qua đầu mình. Bà Pike mỉm cười. “Ừm, để tôi kể tiếp. Đấy là nhờ vào sách vở.”

“Cafall mang theo một quyển sách vĩ đại của cha ngài, khi ngài rời khỏi lâu đài, nói về những truyền thuyết thần kỳ. Kể từ đó chúng tôi liên tục sưu tầm thêm nhiều truyền thuyết, nhiều trang viết nữa. Chúng tôi có nhà in… ờ, đúng vậy. Chúng tôi có thư viện, rất nhiều thư viện. Hễ một người Merromal đi chu du đâu đó, họ luôn mang về nhà thêm nhiều sách, nhiều đề tài, nhiều trang viết, nhiều ý tưởng nữa. Chúng tôi là những người rất có giáo dục, mặc dù đôi khi con cái chúng tôi thấy khó khăn với việc học ở trường. Như trường hợp xảy đến với Asa nhà tôi.”

Charlie nhớ lại Asa cứ thi rớt lên rớt xuống. Nó chờ bà Pike tiếp, nhưng lúc này bà đang dốc lòng vào việc ăn uống. Bà lèn tất cả chỗ bánh còn lại vô miệng và nhai ngốn ngấu.

“Thêm bánh nữa nhé, bà Pike?” bà Onimous lật đật cắt thêm mấy lát bánh nữa và đẩy dĩa bánh qua bàn. “Nào, Charlie, Olivia. Ăn đi. Có nhiều lắm đó.”

Charlie mừng vì bà Onimous là người đầu tiên lên tiếng, vì vậy phá tan bầu không khí khó xử. Nó nhón lấy một lát bánh, đợi bà Pike nuốt hết rồi hỏi. “Tại sao bác lại gởi Asa vô học viện Bloor, bác Pike?”

Bà nhìn nó kinh ngạc. “Chứ nó còn đi đâu nữa? Đó là nơi Vua Đỏ từng sống, nơi những đứa trẻ được ban phép thuật đến học. Mặc dù chính xác ta không thể gọi tai ương của Asa là tài phép được. Nhưng chúng tôi cảm thấy nó thích nghi, được một thời gian. Manfred Bloor đặt nó dưới đôi cánh bảo bọc của anh ta, cuộc sống đã khá tốt cho Asa… và rồi…” giọng bà trượt đi.

“Rồi anh ấy đổi phe,” Olivia chen vào. “Anh ấy đã giúp Charlie tìm được cha.”

“Gia đình Bloor sẽ không bao giờ tha thứ cho Asa phải không ạ?” Charlie rầu rĩ hỏi.

Bà Pike vỗ bàn tay Charlie. “Nó đã làm điều đúng đắn. Không phải lỗi của cháu, Charlie Bone à. Chúng tôi tự hào Asa của chúng tôi đã giúp cháu, đã chống lại nhà Bloor. Nhưng chúng tôi không ngờ sự trả thù lại tàn khốc đến vậy. Nếu Manfred không bị thương như thế…” Bà ngước lên nhìn ba con mèo.

“Tôi biết,” ông Onimous nhìn theo ánh mắt của bà. “Thật khó tin chúng có thể làm thế với một con người.”

“Chúng đã từng là báo,” Charlie thủ thế. “Chứ ông nghĩ gì?”

Tất cả mọi người nhìn lên ba cái đuôi rực rỡ, và Sư Tử, con mèo cam, tỉnh giấc – làm như nó cảm thấy có người đang nhìn mình vậy. Nó duỗi chân mình, ngáp, rồi nhìn cảnh tượng bên dưới bằng con mắt vàng lạnh nhạt, cao ngạo.

“Cháu chả thấy tiếc thương gì cho Manfred,” Charlie nói. “Hắn đã thôi miên ba cháu sâu đến nỗi ông ấy không bao giờ tỉnh giấc nếu không có những con mèo kia.”

“Chúng tôi biết,” bà Onimous nói.

Có một điều Charlie muốn hỏi bà Pike. Xem ra đây là thời điểm thích hợp. “Bác đã đến ngôi nhà vắng của cháu cách đây một tuần, phải không bác Pike? Cháu nghĩ cháu đã thấy bác ở ngoài đường, khi ông cậu cháu… à, khi bóng đèn đường nổ tung.”

Bà Pike quay qua nhìn Charlie. Dường như bà sợ hãi. Miệng bà giật giật và tay bà bắt đầu run rẩy. “Đó là nhà cháu à?” bà thì thào.

“Nơi đó đã từng là nhà cháu,” Charlie sửa lại. “ Lúc này cháu không sống ở đó, nhưng chừng nào ba mẹ cháu đi nghỉ về, và thợ xây sửa chữa xong… ồ, thôi. Cháu xin lỗi. Charlie không thể nói tiếp vì bà Pike có vẻ rất phiền não. Bà vùi hai tay lên che mặt và toàn thân run dữ dội.

Bà Onimous quàng tay ôm vai người phụ nữ đau khổ. “Rồi, rồi. Charlie không có ý muốn hại ai đâu, tôi chắc chắn đấy.”

“Cháu thật sự xin lỗi,” Charlie nói lạc cả giọng. “Cháu không cố ý làm ai buồn hết.”

Ông Onimous lấy một nắm khăn giấy từ cái hộp trên trạn bát đĩa ra và đưa cho bà Pike. Bà giật lấy xấp khăn, chấm mắt, chùi má và hỉ mũi um sùm. Khi tất cả các việc đó đã được làm xong, bà thôi run, thẳng vai lại và nói, giọng cương quyết. “Tôi không thể chối được. Cháu đáng được biết sự thật, Charlie Bone.”

Charlie sững sờ trước thái độ thẳng thắn bất thần của bà Pike. “Cảm ơn,” nó lầm bầm.

Lại một sự im lặng chờ đợi khi bà Pike chậm mắt và hắng cổ họng lần nữa. Rủi thay, bầu thinh lặng lần này bị Olivia phá vỡ. Không thể chịu căng thẳng lâu thêm nữa, con nhỏ khẩn nài. “Sự thật thế nào, bác Pike?”

Bà Pike nháng ánh nhìn quở trách vào con nhỏ. “Tôi sắp nói đây,” bà nạt.

Olivia mỉm cười ngượng ngùng và tụt lút vô ghế của nó.

Cao giọng lên mấy nấc, bà Pike tuyên bố. “Chúng tôi bị hăm dọa.”

Tất cả mọi người sững sờ, trước khi có lời cảm thán nào được thốt lên, bà Pike tiếp. “Có một gã tên là Weedon đã bắt Asa đáng thương. Hắn bắt thằng bé đi và nhốt nó vô trong bóng tối. Khi con trai chúng tôi không về nhà, chúng tôi đã tới học viện, lúc đó rất trễ rồi, nên không ai nhìn thấy chúng tôi. Gia đình Bloor bảo chúng tôi sẽ nhận lại con nếu chúng tôi tìm được thứ họ muốn: một cái hộp, khảm xà cừ. Họ đoán nó ở trong nhà cũ của cháu, Charlie. Chúng tôi đã lùng sục từng li từng tí trong đó, quyết tâm không thấy hộp thì không trở về. Không hộp, không con, họ đã nói vậy.” Bà Pike nuốt đánh ực và lại hỉ mũi.

Charlie chờ bà trở lại câu chuyện, nhưng khi không thấy, nó hỏi. “Bác có thấy cái hộp đó không?”

“Không một tăm hơi,” bà Pike thở dài. “Nó không có ở trong ngôi nhà đó, tôi thề vậy. Lão già, Ezekiel, bảo lão biết Lyell Bone, cha của cháu, đã giấu nó, Charlie. Nhưng khi Lyell bị ếm bùa, chú ấy quên sạch về nó. Chắc hẳn họ sẽ không bao giờ buộc chú ấy nói ra nó ở đâu. Nhưng giờ chú ấy tỉnh, họ sợ chú ấy đột nhiên nhớ ra nơi mình đã cất nó.”

“Chắc chắn nó phải có giá trị lắm,” Olivia kích động.

“Cái gì đó cực kỳ quan trọng,” bà Onimous đồng tình.

Chồng của bà thêm, trầm tư. “Vấn đề sống còn. Ối trời, lời tôi.”

“Cái gì đó, Orvil?” bà vợ hỏi. “Trông ông nghiêm trang thế.”

Ông Onimous cười nhe răng, nhưng không có sức thuyết phục. “Tôi chỉ nghĩ vớ vẩn thôi, chẳng có gì hết.”

Charlie nhận thấy hình như mình cũng có ý nghĩ giống như ông Onimous. “Không vớ vẩn đâu ạ,” nó nói. “Ông nghĩ là họ muốn ngăn ba cháu trở lại, phải không? Đề phòng ba cháu tìm thấy cái hộp trước họ.”

“Nó có vụt qua đầu ta,” ông Onimous thừa nhận.

Charlie đứng lên, giận dữ và bướng bỉnh. “Nếu họ nghĩ có thể bắt lại được ba của cháu thì họ lầm rồi. Ba cháu đang ở cách đây hàng ngàn dặm.”

“Dĩ nhiên, Charlie,” bà Onimous từ tốn nói. “Chú ấy an toàn.”

“Cháu sẽ nói chuyện với ba cháu về cái hộp ngay khi ba cháu về,” Charlie tiếp, “Và chúng cháu sẽ cùng tìm nó.”

“Có thể có gì trong đó nhỉ?” Olivia nóng này. “Tớ không thể chờ nổi đến lúc coi nó. Ngay bây giờ cậu không tìm nó được sao, Charlie. Tớ sẽ giúp đằng ấy?

“Rất có thể Lyell đã trao cái hộp đó cho ai rồi,” ông Onimous tư lự.

Căn phòng lặng đi khi tất cả mọi người nghĩ về điều này. Olivia vừa mở miệng. “Nhưng, ai…” thì họ nghe thấy tiếng Norton Cross mở cửa quán và thét om, “Ngã tôi bây giờ!”

“Trời ơi, đến giờ mở cửa quán rồi!” Bà Onimous chạy vòng qua bàn, chui vèo qua mấy tấm rèm chuỗi hột. Bà rú lên kinh ngạc và tái xuất hiện một giây ngay sau cùng với Benjamin Brown. Kè sát bên thằng bé có một con chó ướt nhép bước đi.

“Ben!” Cả Olivia lẫn Charlie thét vang

“Tớ tưởng nó bị chết đuối rồi chứ,” Olivia lao tới và ôm chầm lấy con chó vấy bùn.

Benjamin cười toe toét với tất cả mọi người. “Có ai đó đã cứu nó. Coi nè.” Nó lôi trong túi quần ra một sợi lông chim dài, đỏ rực. “Tớ thấy nó mắc vô vòng cổ của Hạt Đậu. Chắc chắn nó là một thông điệp, nhỉ?”

“Hiệp sĩ,” Charlie lẩm bẩm.

“Hiệp sĩ nào?” ông Onimous hỏi.

Trong khi bà Onimous lau khô cho Hạt Đậu bằng khăn támư, Olivia mô tả hiệp sĩ chúng đã thấy đứng trong màn sương bên kia cầu. “Ban đầu chúng cháu không thể tin vô mắt mình, nhưng Charlie cũng thấy. Ngài mặc áo choàng đỏ và đội mũ giáp bạc có cắm lông chim trên đỉnh.”

“Hiệp Sĩ Đỏ.” Ông Onimous gãi cằm.

“Ông có định nói cho chúng tôi biết ngài ấy là ai không?” bà Onimous hỏi.

“Không ai biết chắc,” đôi mắt sáng của ông Onimous chớp chớp mấy lần rồi mới nói. “Người ta tin rằng hiệp sĩ đó và Vua Đỏ là một.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.