Quỷ Vương Kén Vợ

Chương 17: Mưa núi




Trong bóng tối, tôi rờ lên mặt bàn phía trước, có gì đấy vừa cứng vừa khô, lấy ngón tay miết nhẹ, liền miết ra một ít bột vụn giống như muội than. Phán đoán dựa theo cảm giác nơi đầu ngón tay, bên dưới lớp bột vụn ấy là xương người chết cứng đơ đơ. Sờ thấy xương người chết cũng chẳng có gì lạ, nhưng tôi nhớ rất rõ, mình và lão Dương Bì, Tuyền béo đã kéo cái cương thi người Nga ấy xuống cống ngầm đốt thành than, da thịt lông tóc đều cháy hết, chỉ còn lại mấy khúc xương không đốt được mà thôi. Ai đã mang cái xác thiêu không hết ấy đặt lên bàn thế này?

Trong lòng tôi cực kỳ kinh hãi, nhất thời cũng không kịp nghĩ nhiều, xung quanh tối om như mực, trên bàn chắc vẫn còn diêm và cái giá nến sáu cây chúng tôi tìm thấy trong phòng. Tôi thầm tính, phải rờ được những thứ đó thắp sáng lên trước để nhìn cho rõ ràng đã, bèn đưa tay ra mò thử. Nhưng không mò thấy diêm đâu, mà đụng một vật vừa cứng vừa tròn, bề mặt có nhiều lỗ, sờ kỹ lại thì ra là một cái đầu lâu người chết. Ngón tay cái của tôi vừa khéo thọc vào hốc mắt của cái đầu lâu ấy, bàn tay khẽ run lên liền hất ngay nó xuống bàn.

Lúc này, ở vị trí cái đầu lâu kia rơi xuống mặt bàn phát ra tiếng động, trong bóng tối đột nhiên bùng lên hai đốm lửa ma xanh leo lét. Toàn thân tôi run bắn, cảm thấy thân thể cứng đờ ra như bị bóng đè, tâm thần hoàn toàn bị đốm lửa ma chấn nhiếp, cơ thể như bị hút trống rỗng, chỉ còn lại cái vỏ xác không, chẳng thể suy nghĩ, cũng chẳng thể hô hấp. Tôi vốn không tin vào cái thuyết con người có hồn phách, nhưng lúc này thì đã thực sự được trải nghiệm thế nào gọi là hồn lìa khỏi xác thật rồi.

Đang lúc hồn bất phụ thể ấy, trước ngực đột nhiên thấy rung rung chấn động, lưỡi đao Khang Hy nằm trong vỏ chợt reo lên mấy tiếng, âm thanh “ong ong ong” chấn động bầu không khí. Ánh mắt như hai đốm lửa ma kia tức thì tắt lụi, tôi như thể vừa thoát khỏi cơn bóng đè “a” lên một tiếng, trước mắt sáng bừng, chỉ thấy mình đang ngồi ngay ngắn trên ghế, ngọn nến trên bàn chỉ còn một đoạn ngắn nhưng vẫn chưa tắt, xung quanh giá nến rơi rớt một ít xương cốt bị thiêu cháy còn sót lại.

Khắp người tôi ướt đẫm mồ hôi lạnh, tựa hồ vừa trải qua một cơn ác mộng, nhưng lại hết sức chân thực. Di cốt của cỗ cương thi người Nga kia vẫn còn nằm lù lù trên mặt bàn, tất cả sự việc này rõ ràng không đơn giản chỉ là một giấc mơ. Tôi đưa mắt nhìn quanh, ba người còn lại đang gục xuống bàn nghỉ ngơi đều đã tỉnh lại, kể cả Tuyền béo, người nào người nấy ướt đẫm mồ hôi, sắc mặt tái nhợt. Không cần phải hỏi, vừa nãy họ cũng giống tôi, suýt chút nữa bị hút mất hồn phách trong giấc mộng khủng khiếp ấy.

Đinh Tư Điềm lồng ngực phập phồng dữ dội, nói với chúng tôi: “Có chuyện này nói ra, mọi người không được cho là mình duy tâm chủ nghĩa đâu đấy, trong... trong căn phòng này… căn phòng này cũng có ma, giống như ở gian đốt xác ấy, có lẽ nào trong cái rương đồng ấy giam giữ vong linh gì đó?”

Đinh Tư Điềm hoảng hốt trong lòng, cũng chỉ đoán bừa đoán bậy nhưng chúng tôi không ai phản bác lại. Vừa nãy rõ ràng là chỉ muốn ngồi xuống nghỉ ngơi giây lát, nhưng ma xui quỷ khiến thế nào cả bốn người đều ngủ thiếp đi, rồi cùng gặp một cơn ác mộng giống hệt nhau, xương cốt của cỗ cương thi người Nga cũng không hiểu vì sao lại được mang lên đặt trên bàn, nói chúng tôi không gặp ma quỷ mới là lạ. Có điều, tôi dường như từng gặp cảm giác lạnh lẽo vừa nãy ở đâu đó rồi, đồng thời cũng ý thức rằng, đó rất có thể không phải do người Nga kia tác quái, mà có khả năng là hồn ma trong lò đốt xác vẫn cứ bám theo chúng tôi gây ra. Tôi vuốt nhẹ thanh đao dài trong lòng, thầm nhủ, cũng may là thanh đao này trấn áp được nó, bằng không cả bọn đã toi mạng một cách không minh bạch rồi. Những sự việc khủng khiếp này, liệu có liên quan gì đến cái rương đồng được nhắc đến trong bức di thư kia không nhỉ? Mọi người trong viện nghiên cứu này hình như đã cùng lúc mất mạng hoặc biến mất vào một ngày nào đó của hơn hai chục năm về trước, rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì. Càng không rõ chân tướng, lại càng khiến tâm chúng tôi không được vững, ai nấy đều cho rằng không nên ở đây thêm một phút nào nữa, cần phải nhanh tìm thấy bản đồ rồi mau chóng rời khỏi chốn thị phi này càng sớm càng tốt.

Nhìn mức độ cháy của ngọn nến, chúng tôi đã ngủ một giấc khoảng bốn năm tiếng đồng hồ, tuy là nằm ngoài kế hoạch, nhưng đầu óc so với lúc trước thì tỉnh táo hơn nhiều. Tôi mang hết chỗ tàn cốt chưa thiêu hết của người Nga kia cho vào bọc vải gói lại, rồi tìm một cái tủ trong phòng bỏ vào, nghĩ lại thấy nhà khoa học người Nga này cũng thật tội nghiệp. Bị người Nhật nhốt bao lâu như vậy mà sớm không chạy muộn không chạy, lại nhằm đúng lúc xảy ra chuyện mới nghĩ đến chạy trốn, chắc rằng chết rồi cũng không được cam tâm cho lắm, bèn nói với cái tủ ấy: “Người sinh ra trên đời phải sống cho vĩ đại, chết cho quang vinh. Lúc sinh tiền ông không làm được gì có ích cho nhân dân, lúc chết lại càng phải an phận thủ kỷ. Tuy ông bị người ta uy hiếp bắt phải làm việc, nhưng cũng là giúp kẻ ác làm điều xấu, cuối cùng gặp phải kết cục này cũng là tự ăn quả đắng, không thể oán trách được ai. Biển khổ vô biên, không sớm quay đầu thì nói những lời hối hận phỏng còn ý nghĩa gì? Giờ đây chủ nghía phát xít đã bị hủy diệt hoàn toàn, đồ đạc trong phòng này của ông, chúng tôi cũng không khách khí nữa, nay thay mặt cho nhân dân tịch thu lại hết.”

Lúc này, ba người còn lại đã lục soát cả gian phòng, cuối cùng phát hiện ra trong lò sưởi trên tường có một cái túi. Cái túi này rõ ràng chính là túi hành trang kiểu cũ của người Nga, làm bằng vải buồm, dạng thức như cái bao tải, chẳng có phéc mơ tuya hay khuy nút gì, miệng túi có một sợi dây, kéo một cái là thắt chặt miệng. Từ thời Thế chiến thứ Nhất loại túi này đã thịnh hành ở Nga, khoảng trước sau Thế chiến thứ Hai, ở vùng Đông Bắc, Mãn Châu của Trung Quốc cũng thường hay gặp. Nó là điển hình của phong cách kiểu Nga, đơn giản, thô ráp, nặng nề, chịu lực tốt.

Lão Dương Bì giơ ngọn nến chiếu sáng, Đinh Tư Điềm và Tuyền béo đổ hết các thứ ra, kiểm tra từng món từng món một, phát hiện cái túi của người Nga này chuẩn bị thật chẳng khác nào túi bách bảo, linh ta linh tinh thứ gì cũng có. Trong các vật phẩm ông ta chuẩn bị, ngoài bình nước và hộp cơm dã chiến ra, thậm chí còn có cả tiền bạc, có lẽ là để mưu sinh sau khi trốn thoát khỏi nơi này, còn có diêm, nến chống gió, mấy bình đựng chất hóa học khoảng mấy chục mililit. Những chất hóa học này là vật thiết thân rất cần khi đào tẩu ở vùng hoang dã, có thể giải độc rửa ruột, mồi lửa, rồi làm tín hiệu dạ quang... nhưng chúng tôi chỉ biết tác dụng chứ lại không phân biệt được loại nào với loại nào, cứ lấy rồi tìm hiểu sau vậy. Đinh Tư Điềm lần lượt phân loại, các vật phẩm chúng tôi đang cần nhất xếp sang một bên, thứ nào không cần thì bỏ lên bàn.

Kế đó, bọn họ lại tìm được hai cái đèn công binh kiểu Nhật, khác hẳn với đèn pin chúng tôi vẫn thường thấy, hình vuông vuông dẹt dẹt, đen tuyền, to cỡ hai bao thuốc lá. Cái chụp đèn to bằng nắm tay phía trước hình tròn, gắn phía trên hộp sắt đen ấy, phía sau không có chỗ nào nắm tay, nhưng phía trên có một cái tay xách hình tròn cố định, lúc sử dụng có thể lấy dây đai buộc trước ngạc, chiếu sáng trong cự ly ngắn. Trong túi còn có một số pin dự trữ nữa.

Ngoài ra, còn một ít thức ăn. Năm đó, việc hậu cần cung ứng của quân Nhật còn rất lạc hậu, căn bản không thể cung cấp lương khô dã chiến cho toàn quân. Nhưng một số đơn vị đặc thù thì được đãi ngộ khác với bộ đội bình thường, chẳng hạn như hải quân, không quân và nhiều quân đoàn đặc thù khác. Có lẽ người Nga này được vị bác sĩ quân y người Nhật kia giúp đỡ, nên để dành được một ít cá khô, đường viên, đồ hộp... tôi sợ thực phẩm đều đã biến chất, bèn nếm thử một chút, liền phát hiện ra trong môi trường nhiệt độ không biến đổi dưới hầm này, số thực phẩm ấy đến giờ vẫn sử dụng được. Điều này, có thể cũng do hoàn cảnh đặc thù khiến cái xác của người Nga kia trải qua hơn hai chục năm cũng không thối rữa tạo ra.

Trong túi không ngờ lại có cả một khẩu súng lục Nambu 14 bọc trong vải dầu, loại súng này là do xưởng công binh Nhật Bản chế tạo mô phỏng theo súng lục Luger Parabellum 08 của Đức, tức là súng đeo tiêu chuẩn của sĩ quan Nazi, thân súng có cơ cấu khóa bán tự động, bắn được tám phát đạn. Thời kỳ kháng Nhật, quân dân Trung Quốc gọi loại súng này là “súng poọc hoọc”. Nhà Tuyền béo hồi trước có một đống chiến lợi phẩm súng ống tịch thu được của địch, nhìn thấy khẩu “poọc hoọc” này liền như gặp lại bạn cũ. Cậu ta cầm khẩu súng lên ngắm nghía một hồi, lớp vải dầu bọc bên ngoài rất kín nên không hề có dấu vết gỉ sét, băng đạn cũng còn nguyên chưa bắn phát nào. Có điều loại súng này tồn tại rất nhiều vấn đề về mặt công nghệ thiết kế, các lỗi như kẹt đạn, cướp cò, tịt ngòi rất nhiều, mang nó bên mình cùng lắm cũng chỉ có tác dụng phòng thân mà thôi. Tuyền béo có súng trên tay thì chẳng còn để ý gì nữa, không nói không rằng nhét luôn vào sau lưng, tôi bèn nói với cậu ta: “Súng poọc hoọc bản thân đã không dễ sử dụng rồi, vả lại khẩu súng này hơn hai mươi năm nay chưa được duy tu bảo dưỡng, cậu tốt nhất là nên kiềm chế một chút, không đến lúc vạn bất đắc dĩ thì cố gắng đừng dùng đến nó. Súng poọc hoọc còn được gọi là súng tự sát, bắn không trúng kẻ địch còn đỡ, bắn phải mình thì toi đời luôn đấy.

Tuyền béo đang định phét lác về tài bắn súng của mình với tôi, thì Đinh Tư Điềm đột nhiên hoan hỉ reo lên: “Tờ giấy này rất có thể chính là sơ đồ của viện nghiên cứu.” Vừa nói cô vừa nhặt một tờ giấy trong đống đồ tạp nhạp lên, chúng tôi liền ngừng câu chuyện lại, vội vàng đón lấy tấm bản đồ giơ lên gần ánh nến xem thử, thoáng nhìn liền thấy hơi thất vọng. Có hai tấm bản đồ một lớn một nhỏ, tấm nhỏ là bản đồ bố trí của nơi được gọi là viện nghiên cứu này, có điều chỉ là bản đồ vẽ tay, bên trên có rất nhiều ký hiệu nhìn rối rắm vô cùng. Ngoài ra còn một tấm lớn hơn là bản đồ địa hình của khu vực động Bách Nhãn, phía Bắc nối liền đại mạc, phía Nam nối với thảo nguyên, những điều này lão Dương Bì đã biết rõ cả rồi, vì vậy ý nghĩa của tấm bản đồ lớn này đối với chúng tôi không lớn lắm.

Xem kỹ lại tấm bản đồ kết cấu của viện nghiên cứu mấy lượt, mới phát hiện ra nơi này cực kỳ rộng lớn. Tấm bản đồ ấy tuy sơ sài đơn giản, nhưng hóa ra lại rất trực quan dễ hiểu, cũng rất hoàn thiện, chủ yếu là những đường cống ngầm phân bố chằng chịt dưới lòng đất. Nhìn những ký hiệu đánh dấu trên bản đồ thì thấy tuyến đường đào tẩu của người Nga đó xuất phát từ gian hầm ngầm này, men theo đường cống ngầm đi qua chỗ gian đốt xác, sau đó quành qua khu vực giam cầm bị bịt kín hoàn toàn, vòng một vòng lên phía Bắc, khe núi phía Tây thỉnh thoảng lại có “phần phong” giết người trong vô hình vô ảnh, rõ ràng là ông ta muốn thoát ra từ khe núi phía Bắc.

Chúng tôi vẫn còn chưa hết sợ gian phòng có cỗ cương thi, xem xong bản đồ liền lập tức tìm ra con đường thoát, sau đó quyết định phải nhanh chóng xuất phát. Vậy là cả bọn chia nhau thu thập hết mọi thứ có thể dùng được, cả mấy chai rượu Tây cũng mang theo. Cái đuôi tư bản chủ nghĩa của mấy người đều chưa cắt sạch, trước lúc đi còn nhặt thêm mấy món đồ chơi Tây hiếm gặp, cả quần áo giày dép gì mặc được cũng không bỏ lại. Tôi thấy trong phòng có cái mũ bảo hộ chiến đấu, liền thuận tay đội luôn lên đầu mình. Cái mũ da chó của tôi rơi mất rồi, trên đầu lại có vết thương hở, không đội mũ rất dễ bị uốn ván, cũng khỏi để lũ gián nhảy lung tung dưới nước kia rơi vào tóc. Tôi cứ thế tìm cớ biện minh cho mình, cuối cùng cũng coi như vạch được giới tuyến phân biệt hành vi của mình với hành vi chứng tỏ sự giác ngộ rất thấp của bọn lão Dương Bì và Tuyền béo.

Trở lại đường cống ngầm hôi thối, tính ra thì bên ngoài trời chắc đã sáng rồi, tuyến đường thoát khỏi chốn tuyệt cảnh này đã vạch ra, tuy những việc phải giải quyết sau khi trở về thực sự khiến người ta phải đau đầu, nhưng dù sao cũng tốt hơn là từng giờ từng khắc nơm nớp lo sợ trong cái viện nghiên cứu có ma này. Chúng tôi đều nóng lòng trở về, vừa tham chiếu bản đồ vừa giơ nến tiến lên, dựa theo tuyến đường đã vạch ra, chúng tôi sẽ phải quay ngược trở lại một đoạn.

Nhưng chưa đi được bao lâu, tôi phát hiện ra Đinh Tư Điềm cứ ho mãi, sắc mặt rất không ổn. Ban đầu còn tưởng rằng tại thiếu ánh sáng nên nhìn lầm, nhưng khi dừng lại để kiểm tra cho kỹ, liền thấy thần sắc cô hết sức tiều tụy, giữa hai chân mày phủ một làn khí xanh rất rõ, rờ tay lên trán thấy hơi hâm hấp, tuy không sốt cao, nhưng nhìn sắc mặt thì bệnh tình có vẻ không hề nhẹ chút nào.

Tôi sớm đã lo lắng không biết đường cống ngầm và lò đốt xác này liệu có vi rút vi khuẩn gì không, thấy tình hình đó liền không khỏi lo lắng thay cho Đinh Tư Điềm: “Bệnh dịch hạch? Đậu mùa? Nhưng không giống như nhiễm phải bệnh truyền nhiễm trong cái viện nghiên cứu bí mật này cho lắm, nếu thế thì ai cũng có phần, tại sao mình, Tuyền béo và lão Dương Bì đều không cảm thấy có hiện tượng gì dị thường cả nhỉ?”

Lão Dương Bì và Tuyền béo nghe có động tĩnh cũng đều dừng bước quay lại nhìn cô, lão Dương Bì hiểu biết các loại thảo dược, có thể coi như một nửa ông lang vườn, ông lão quan sát đầu lưỡi Đinh Tư Điềm, rồi lại thử bắt mạch, đoạn kinh hãi kêu lên: “Sợ rằng trúng độc rồi...”

Đinh Tư Điềm là cô gái hết sức kiên cường, về đây tham gia lao động sản xuất, mấy bệnh vặt, hay vết thương nhẹ cô đều nghiến răng chịu đựng, không để người khác phải chăm sóc cho mình, cô vốn định kiên trì đến lúc cả bọn thoát ra ngoài rồi mới nói, nhưng lúc này cũng biết là không thể giấu được nữa, bèn lên tiếng: “Lúc chạy ra khỏi gian thiêu xác, bị hơi độc của con trăn vảy gấm phả ra liền bắt đầu cảm thấy hơi tức ngực khó chịu. Mình thấy mọi người đều không sao, nên cũng không để tâm lắm, lúc vào đến căn phòng của người Nga đó vẫn chưa thấy gì, nhưng giờ thì cảm giác càng lúc càng nặng hơn, toàn thân lạnh run, sợ là đã trúng phải độc của con trăn đó rồi.”

Sương độc mà loài trăn vảy gấm phun vào hai giờ Tý, Ngọ rất nồng, lúc đó chúng tôi đều bị vây khốn trong gian đốt xác, tuy kịp thời đào thoát trước khi hít phải thứ sương độc trí mạng ấy, nhưng chất độc quá mạnh, lúc ấy mỗi người đều không khỏi cảm thấy váng đầu buồn nôn, sợ rằng đã ít nhiều hít phải một chút. Trăn vảy gấm có tính âm hàn, chất độc của nó cũng thuộc loại âm độc, đàn ông dương khí vượng nên không thấy gì mấy, nhưng trong cùng một điều kiện như thế, phụ nữ lại nhạy cảm với chất độc này hơn nhiều, vậy nên chỉ cần hít phải một chút, Đinh Tư Điềm đã không sao chịu đựng nổi. Qua giai đoạn tiềm phục, cuối cùng chất độc đã bắt đầu phát tác.

Nghe nói đàn bà con gái mà trúng phải chất độc của trăn vảy gấm phun ra, mắt miệng sẽ xanh lét, đồng thời có triệu trứng hâm hấp sốt, hai mắt nảy sinh ảo giác, trông thấy những màu sắc rực rỡ nhảy múa. Nếu không có thuốc hoặc biện pháp giải độc, phỏng chừng trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ người sẽ choáng váng, hít thở khó khăn, toàn thân tê cứng, nghiêm trọng thì dẫn đến hôn mê bất tỉnh, cuối cùng tử vong vì hệ thống hô hấp ngưng trệ và toàn bộ cơ bắp đều tê liệt. Một khi chất độc đã phát tác đến thời kỳ cuối thì dù Hoa Đà tái thế cũng chẳng thể làm gì được.

Lão Dương Bì cuống quýt cả lên: “Hết cứu rồi, hết cứu rồi, trên thảo nguyên rất khó tìm được loại thảo được giải chất độc này, chúng ta về được khu chăn nuôi rồi chạy đến bệnh viện tiểu khu, nhanh nhất cũng phải mất đến hai ngày, thế chẳng phải Tư Điềm đã mất mạng rồi sao?” Tuyền béo cũng lo lắng vò đầu bứt tóc, nói với tôi: “Nhất ơi, cậu có cách gì không? Mau nghĩ cách gì cứu Tư Điềm đi, không thể để cô ấy chết thế này được!”

Tôi thấy tuy Đinh Tư Điềm chỉ hít phải một ít hơi độc, đến giờ tình hình tạm coi như ổn định, vẫn còn đi lại được, thần trí cũng khá tỉnh táo, nhưng triệu chứng trúng độc giai đoạn đầu dù sao cũng đã xuất hiện. Nếu thoát ra bên ngoài từ khe núi mé phía Bắc, vậy tức là sẽ đến vùng giáp ranh với hoang mạc không người sinh sống, càng cách xa khu chăn nuôi hơn. Mà dẫu không đi đường vòng ấy, không có ngựa, chúng tôi căn bản cũng không thể kịp thời đưa cô đến bệnh viện. Vả lại, ngộ nhỡ chất độc cô trúng phải lại phát tác trong thời gian ngắn hơn thì sao? Thêm nữa, ai có thể đảm bảo dọc đường sẽ bình an thuận lợi, không xảy ra bất cứ chuyện gì ngoài ý muốn nữa chứ?

Tôi nhíu chặt mày, cầm bản đồ lên xem thử, rồi lập tức quyết định: “Con trăn vảy gấm đó là do cái viện nghiên cứu này đặc biệt nuôi dưỡng. Bọn họ nghiên cứu nó là để trị liệu cho các binh sĩ bị trúng phải chất độc của loài trăn này trên chiến trường Thái Bình Dương, nói không chừng ở đây lại có huyết thanh giải độc cũng nên. Khả năng này rất lớn! Không vào hang cọp sao bắt được cọp con, tôi thấy muốn xoay chuyển tình thế này thì chỉ còn cách đánh liều một phen, đến tòa nhà chính của viện nghiên cứu mà tìm thuốc giải độc thôi.”

Để không gây áp lực tâm lý cho Đinh Tư Điềm, tôi tỏ vẻ không gấp gáp gì cho lắm, sau khi xác định tuyến đường, cả bọn vẫn tiến lên với tốc độ bình thường. Đằng nào thì xem trên bản đồ, khoảng cách từ chỗ chúng tôi đến tòa nhà chính cũng không xa lắm, có đi chậm hơn nữa cũng vẫn kịp. Nếu trong tòa nhà chính không có thuốc giải độc hay huyết thanh gì đó, vậy thì mọi chuyện cũng coi như xong. Tôi không khỏi ngấm ngầm lo sợ, trong đầu cứ vẩn vơ ý nghĩ ngộ nhỡ không có thuốc giải độc thì sao? Vả lại trong đám bọn tôi, có ai nhận ra được thuốc giải độc nó trông như thế nào đâu? Nghĩ mãi nghĩ mãi, cuối cùng dứt khoát mặc kệ hết, chẳng cần nghĩ ngợi gì nhiều nữa. Tiên sư cha nhà nó, đằng nào thì cứ làm cho đến cùng trước đã, ông đây không thấy quan tài không rơi lệ, không đến Hoàng Hà dạ không cam.

Đi được một lúc, chúng tôi đã tiến vào một đường cống ngầm rất rộng, nơi này có rất nhiều đường ống xi măng cùng đổ về. Tuyền béo đi trước mở đường đột nhiên giẫm phải thứ gì đó, làu bàu chửi đổng rồi nhấc chân hất lên một cú, trong làn nước bẩn liền lộ ra mấy khúc xương người chết, có nửa khúc xương chân vẫn còn đeo dính một cái giày, tôi đang định xem cho kỹ, thì bỗng phát giác, trong bóng tối, đường cống xi măng nơi chúng tôi đứng đột nhiên xoay chuyển.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.