Phù Ảnh Ám Hương

Chương 37




TÔI NGỦ KHÔNG NGON gì cả.

Thật ra thì tôi cũng không chắc mình có ngủ không. Có vẻ như tôi đã dành cả đêm nhìn chằm chằm lên cái trần nhà lồi lõm trong nhà khách phục vụ phòng ngủ và bữa sáng của Edie, đầu óc xoay mòng mòng. Chắc là tôi cũng ngủ được một lúc, vì sáng ra khi thức giấc đầu tôi tràn ngập hình ảnh một giấc mơ khủng khiếp, trong giấc mơ đó tôi biến thành con quỷ cái chân dài Alicia. Tôi mặc bộ đồ hồng, vừa cười vừa nhạo báng còn Jess trông tái mét và thất thủ hoàn toàn. Trên thực tế, khi tôi đang nhớ lại giấc mơ này, trông Jess hơi giống tôi.

Chỉ nghĩ đến thế thôi tôi đã nổi gai ốc. Tôi phải làm gì đấy thôi.

Tôi không đói, nhưng Edie đã chuẩn bị một bữa sáng kiểu Anh đầy ự và chẳng có vẻ gì là bỏ vào tai lời tôi nói rằng bình thường tôi chỉ ăn một mẩu bánh mì nướng. Thế nên tôi chỉ nhấm nháp chút thịt lợn muối xông khói, trứng và giả vờ cố nuốt món bánh pudding đen, đồng thời tìm cách ngăn mình dỏng tai sang nghe chuyện của một cặp người Đức tốt bụng đang đi nghỉ. Sau ngụm cà phê cuối cùng, tôi rời nhà khách đi tìm Jess.

Khi tôi leo đồi lên nhà chị, mặt trời buổi sáng rọi vào mắt tôi, và làn gió lạnh vờn trên mái tóc. Bên kia bãi cỏ tôi nhìn thấy Jim ở ngoài cửa hàng, đang dỡ những thùng táo từ xe tải xuống và giơ tay chào. Tôi vẫy lại, tinh thần lại hớn hở. Có cảm giác như hôm nay là ngày để làm lành. Một khởi đầu mới và làm lại cuộc đời.

Tôi tiến lại cánh cửa quá-quen-thuộc đó, nhấn chuông, và chờ đợi.

Không có ai trả lời.

Thế đấy, tôi thật sự mệt mỏi khi người ta cứ không ở nhà lúc tôi muốn sum họp thật tình cảm với họ. Tôi nheo mắt nhìn qua cửa sổ, băn khoăn không biết có phải chị đang trốn không. Có lẽ tôi nên ném vài hòn đá lên cửa sổ.

Mỗi tội chuyện gì sẽ xảy ra khi tôi đột nhập vào cơ chứ? Chị sẽ thật sự ghét tôi.

Tôi nhấn chuông vài lần nữa, rồi bỏ cuộc và quay bước trở lại con đường. Tôi ngồi trên một bức tường, tạo tư thế thoải mái. Thế này cũng được. Hôm nay là một ngày đáng yêu. Mình sẽ đợi, rồi khi chị về nhà mình sẽ nhảy xổ ra với bài phát biểu về nỗi ân hận sâu sắc của mình.

Bức tường không dễ chịu như ban đầu tôi tưởng, nên thỉnh thoảng tôi phải thay đổi tư thế, cố tìm tư thế thoải mái nhất. Tôi xem giờ, rồi ngắm một bà già chậm chạp bước qua cùng con chó của bà trên vỉa hèường.

Rồi lại xem giờ tiếp. Năm phút đã trôi qua.

Trời ơi, thế quái nào mà những kẻ chuyên đi theo dõi người khác làm được việc đó nhỉ? Chắc hẳn họ phải chán chết đi mất.

Tôi đứng dậy cho đỡ tê chân và lại tiến về phía nhà Jess. Tôi nhấn chuông, chỉ để yên tâm, sau đó lại trở lại chỗ bức tường. Trong lúc làm thế, tôi thấy một cảnh sát đi ngược phố về phía mình. Cảnh sát làm gì ở đây cơ chứ, trên con phố nhỏ lúc mười giờ sáng? Tôi cứ tưởng tất cả bọn họ đều đang chết gí bên bàn làm việc giấy tờ hoặc lượn lờ trong nội thành bằng xe tuần tra.

Tôi hơi sợ khi nhìn thấy anh ta đang chiếu tướng mình. Nhưng tôi đâu có làm gì sai, đúng không nhỉ? Ý tôi là, không phải theo dõi nhà người khác là phạm pháp chứ?

Ôi. Thôi được rồi, có lẽ theo dõi nhà người khác là phạm pháp. Nhưng tôi chỉ mới làm thế có năm phút thôi. Chắc chắn thế thì không sao hết. Vả lại dù sao anh ta biết tôi theo dõi ai thế nào được? Có thể tôi chỉ ngồi đây chơi thôi thì sao.

“Cô ổn chứ?” anh nói khi tiến lại gần.

“Vâng, cảm ơn anh!”

Anh nhìn tôi chờ đợi.

“Có vấn đề gì à?” tôi hỏi.

“Cô có thể đi chỗ khác được không, thưa cô? Đây không phải là chỗ ngồi công cộng.”

“Sao tôi lại phải đi?” tôi can đảm nói. “Đó là điều không ổn với đất nước này! Bất cứ ai không giống người khác đều bị khủng bố! Sao người ta lại không thể ngồi trên một bức tường mà không bị l

“Đó là tường nhà tôi,” anh nói, chỉ vào cái cửa trước. “Đây là nhà tôi.”

“Ô, ừ nhỉ.” Tôi đỏ mặt nhảy xuống. “Tôi chỉ đang... định đi thôi. Cảm ơn anh! Bức tường đẹp quá!”

OK. Vụ theo dõi đến đây là kết thúc. Mình sẽ tiếp tục sau.

Tôi xuống đồi đến bãi cỏ của làng, và thấy mình lại rẽ sang phía cửa hàng. Khi tôi vào, Kelly đang ngồi sau quầy, tay cầm một tờ Elle, còn Jim đang xếp táo lên kệ bày hàng.

“Tôi đã đến gặp Jess,” tôi ủ ê nói. “Nhưng chị ấy không ở nhà. Tôi sẽ phải đợi đến khi chị quay về.”

“Cháu đọc phần bói trong tháng của cô cho cô nghe nhé?” Kelly nói. “Xem có liên quan gì đến chị em không?”

“Thôi nào, cô gái trẻ,” Jim mắng. “Con nên ôn thi đi. Nếu con không làm việc thì có thể đi và đợi ở quán trà.”

“Không!” Kelly vội nói. “Con ôn ngay đây!” Con bé xị mặt với tôi, rồi đặt tờ Elle xuống và với lấy cuốn sách Đại số sơ cấp.

Trời ơi, đại số. Mình đã quên béng rằng thứ đó có tồn tại. Có lẽ mình nên mừng vì không còn mười ba tuổi nữa.

Tôi cần bổ sung ít đường nên tiến thẳng đến kệ bánh quy vơ lấy một ít bánh quy sô cô la làm bằng bột mì chưa rây và bánh quy Orange Club. Sau đó tôi lướt đến giá bán đồ văn phòng phẩm. Không ai có quá nhiều đồ văn phòng phẩm cả, vậy nên tôi lấy hai gói đinh ghim hình con cừu, thể nào mấy thứ này chẳng có ích. Có lẽ mình cũng nên lấy thêm cả dập ghim và cặp tài liệu hình cừu nữa cho đủ bộ.

“Ở đó cô ổn chứ?” Jim nói, nhìn tôi tay xách nách mang.

“Vâng, cảm ơn anh!”

Tôi đặt đồ của mình lên quầy để Kelly tính tiền.

“Cô có muốn uống trà không?” nó nói.

“Ôi không, cảm ơn cháu.” Tôi lịch sự nói. “Cô không thể không mời mà đến thế được. Cô sẽ làm phiền.”

“Làm phiền cái gì ạ?” con bé đáp. “Đến tận khi bánh mì về lúc bốn giờ chiều sẽ chẳng có ai vào đây đâu. Và cô có thể giúp kiểm tra vốn từ tiếng Pháp của cháu.”

“Ừ, thế cũng được.” Tôi tươi tỉnh. “Nếu cô có ích thế thì...”

***

Ba tiếng sau tôi vẫn ở đây. Tôi đã uống ba tách trà, ăn nửa gói bánh quy sô cô la làm bằng bột mì chưa rây, một quả táo và đã mua thêm vài món quà cho những người ở nhà nữa, như là một bộ bình Toby, mấy tấm thảm, toàn những thứ ai cũng cần. Ngoài ra tôi còn giúp Kelly nữa. Trừ việc giờ chúng tôi đã phát triển từ ôn đại số và từ vựng tiếng Pháp sang việc con bé nên mặc gì cho buổi vũ hội của trường. Chúng tôi mở từng tờ tạp chí, và tôi trang điểm mắt cho con bé mỗi bên một kiểu, chỉ để nó thấy những khả năng khác nhau. Một mắt thật sự đậm, bóng mắt màu khói và gắn cái mi giả dự trữ tôi tìm thấy trong túi đựng đồ trang điểm của mình; mắt kia toàn tông bạc theo phong cách thập niên sáu mươi, mascara trắng kiểu thời đại vũ trụ.

“Đừng có để mẹ con thấy con thế này,” là tất cả những gì Jim nói khi bước qu

“Giá mà cô mang theo tóc nối,” tôi nói, nghiên cứu khuôn mặt của Kelly thật kỹ. “Cô có thể làm cho cháu kiểu tóc đuôi ngựa tuyệt nhất.”

“Trông cháu tuyệt quá!” Kelly tròn mắt nhìn mình trong gương.

“Cháu có đôi gò má tuyệt vời,” tôi nói với con bé, phớt thêm chút phấn lên đó.

“Như thế này vui ghê!” Kelly nhìn tôi, mắt sáng rực. “Trời ơi, cháu ước gì cô sống ở đây, cô Becky! Chúng ta có thể làm thế này hàng ngày!”

Trông con bé rất phấn khích, tôi thấy cảm động, thật buồn cười.

“À... cháu biết đấy,” tôi nói. “Có lẽ cô sẽ lại đến thăm. Nếu cô giải quyết được chuyện với cô Jess.”

Nhưng ngay khi nghĩ đến Jess, lòng tôi lại tan nát. Càng nhiều thời gian trôi qua, tôi càng thấy căng thẳng khi nghĩ đến việc gặp lại chị.

“Cô muốn cùng trang điểm thế này với Jess,” tôi nói thêm, hơi buồn. “Nhưng cô ấy không thích.”

“Thế ạ, thế thì cô ấy thật ngốc,” Kelly nói.

“Cô ấy là một người khá gai góc,” Jim nói thêm khi đi ngang qua, tay cầm mấy chai nước anh đào. “Khó mà tin được hai người là chị em.” Anh xếp mấy cái chai xuống và quệt lông mày lau mồ hôi. “Có lẽ do sự dạy dỗ. Jess có một tuổi thơ khó khăn.”

“Thế anh có biết gia đình chị ấy không?” tôi hỏi.

“Có.” Anh gật đầu. “Không rõ lắm nhưng tôi có biết họ. Tôi từng làm việc với bố Js. Ông là chủ của Bertram Foods. Sống ở Nailbury. Cách đây năm dặm.”

Đột nhiên tôi thấy tò mò bùng lên. Jess chưa từng nói một lời về gia đình chị, dù tôi đã tế nhị thăm dò.

“Thế... họ như thế nào?” tôi nói, cố gắng hết sức tự nhiên. “Gia đình chị ấy ấy.”

“Như tôi đã nói, cô ấy từng trải qua một giai đoạn thật sự khó khăn. Mẹ chết khi cô ấy mới mười lăm tuổi. Với một cô gái ở tuổi đó thì không hề dễ dàng.”

“Con chưa từng biết chuyện đó!” Kelly mở to mắt.

“Còn bố cô ấy...” Jim trầm ngâm tựa vào bàn. “Ông là một người tốt. Một người ngay thẳng. Rất thành đạt. Ông đã dựng nên Bertram Foods từ con số không, nhờ làm việc vất vả. Nhưng ông không phải người có thể gọi là... dễ chịu. Ông rất nghiêm khắc với Jess cũng như với các em cô ấy. Mong đợi họ sẽ tự lo được cho bản thân. Tôi nhớ Jess khi cô ấy bắt đầu học ở một trường lớn. Cô ấy thi đỗ vào trường cấp ba tận Carlisle. Học rất giỏi.”

“Cháu đã cố thi trường đó,” Kelly nói, nhăn nhó với tôi. “Nhưng cháu không đỗ.”

“Cô ấy rất thông minh, Jess ấy,” Jim nói đầy thán phục. “Nhưng sáng nào cô ấy cũng phải bắt ba chuyến xe bus mới đến được trường. Tôi từng lái xe qua đó - và tôi sẽ nhớ hình ảnh ấy đến chết. Giữa một buổi sáng, chẳng có ai xung quanh, và Jess đang đứng ở trạm xe bus khoác chiếc cặp sách to sụ. Hồi ấy Jess không phải là người phụ nữ mạnh mẽ, cao lớn như bây giờ. Cô ấy chỉ là một cô bé con gầy gò bé nhỏ.”

Tôi không biết nói gì. Tôi đang nhớ lại việc bố mẹ đã đưa tôi đi học bằng ô tô hàng ngày. Cho dù trường chỉ cách nhà một dặm.

“Hẳn là họ phải giàu lắm,” Kelly nói, lục túi đựng đồ trang điểm của tôi. “Nếu họ sở hữu Bertram Foods. Mọi người đều mua bánh ướp lạnh của họ,” con bé. “Cả kem nữa. Họ có một danh mục hàng khổng lồ!”

“Ôi, họ giàu lắm,” Jim nói. “Nhưng họ luôn đóng kín hầu bao.” Anh dỡ tung thùng các tông xúp ăn liền ra và bắt đầu xếp lên giá. “Bill Bertram thường khoe về chuyện đó. Rằng tất cả các con ông đều làm việc để có tiền tiêu vặt.” Anh xếp lại mấy gói gà và nấm trên giá cho gọn gàng. “Và rằng nếu họ không kiếm đủ tiền đi xe đến trường hay gì đấy... thì sẽ không đi đâu hết. Đơn giản thế thôi.”

“Tiền đi xe đến trường?” tôi không thể hiểu được cụm từ này. “Nhưng ai chẳng biết là bố mẹ sẽ trả tiền xe đến trường cho con cái?”

“Không phải nhà Bertram. Ông ấy muốn dạy con cái giá trị của đồng tiền. Người ta cứ truyền tụng suốt cả năm trời chuyện một trong hai cậu con trai nhà Bertram là đứa nhóc duy nhất ở trường không đi xem diễn kịch câm. Cậu ấy không có tiền và bố cậu ấy cũng không cho một xu.” Jim lại tiếp tục sắp xếp xúp. “Tôi không biết chuyện đó có thật không. Nhưng cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả.” Anh nhìn Kelly một cái thật chế giễu hết sức. “Con không biết là con sướng thế nào đâu cô gái trẻ. Con có một cuộc sống dễ dàng!”

“Con có làm việc nhà!” Kelly cãi ngay lập tức. “Bố nhìn xem có đúng con đang giúp đỡ gia đình không?”

Con bé với lấy vài phong kẹo cao su trên quầy kẹo và bóc, rồi quay sang tôi. “Giờ cháu sẽ trang điểm cho cô, cô Becky!” Nó lục túi trang điểm của tôi. “Cô có màu đồng không?”

“Ờ... có,” tôi lơ đãng nói. “Đâu đó.”

Tôi vẫn đang nghĩ đến hình ảnh Jess đứng ở trạm chờ xe bus, bé nhỏ và gầy gò.

Jim đang ấn các hộp xúp ăn liền bẹp xuống. Anh quay lại nhìn tôi động viên.

“Đừng lo. Cô sẽ làm lành được với J

“Có lẽ thế.” Tôi cố mỉm cười.

“Hai người là chị em mà. Là người nhà. Người nhà thì luôn tha thứ cho nhau.” Anh đưa mắt ra ngoài cửa sổ. “Ôi. Hôm nay họ lại tụ tập sớm.”

Tôi nhìn theo ánh mắt anh và thấy hai bà già đang lang thang ngoài cửa hiệu. Một bà nheo mắt nhìn chỗ bánh mì bày bán rồi quay đi lắc đầu với bà kia.

“Không ai mua đúng giá à?” tôi nói.

“Không phải trong làng này,” Jim nói. “Trừ khách du lịch. Nhưng ở đây cũng không có nhiều khách du lịch lắm. Hầu hết là dân leo núi, những người muốn trèo lên đỉnh Scully - và họ cũng chẳng mấy cần bánh mì. Bánh mì của tôi chỉ là dịch vụ cấp cứu thôi.”

“Ý anh là sao?” tôi nói, không hiểu gì cả.

“Khi những kẻ ngốc đó bị kẹt lại.” Jim nhún vai, với tay lấy tấm biển đề giảm nửa giá. “Chẳng sao. Tôi đã quen nghĩ rằng bánh mì là thứ bán lỗ vốn để lôi kéo khách hàng, kiểu như thế.”

“Nhưng khi mới ra lò và nóng hổi thì chúng ngon lắm mà!” tôi nói, nhìn dọc theo dãy những ổ bánh mì mũm mĩm. Đột nhiên tôi thấy tội nghiệp chúng quá, cứ như chúng chưa từng được mời khiêu vũ vậy. “Tôi sẽ mua một ít. Đúng giá,” tôi nói chắc như đinh đóng cột.

“Tôi sắp hạ giá rồi,” Jim nói rõ.

“Tôi không quan tâm. Tôi sẽ mua hai bánh mì trắng và một chiếc nâu.” Tôi diễu qua chỗ bày bánh mì và lấy chúng khỏi giá.

“Cô định làm gì với ngần ấy bánh mì ạ?” Kelly nói.

“Chẳng biết nữa. Làm bánh mì nướng chẳng hạn.” Tôi đưa cho Kelly vài bảng, con bé cho ba ổ bánh vào túi, cười khúc khích.

“Cô Jess nói đúng, cô bị điên rồi,” nó nói. “Cháu đánh mắt cho cô nhé? Cô muốn trông mình thế nào?”

“Khách hàng sắp tới rồi đấy,” Jim cảnh báo. “Bố sắp dựng biển lên.”

“Con chỉ đánh một mắt thôi,” Kelly nói, nhanh tay lấy hộp bóng mắt. “Rồi khi họ đi hết con sẽ đánh nốt mắt còn lại. Cô nhắm mắt lại đi, Becky.”

Con bé bắt đầu tô bóng mắt lên mí mắt tôi, còn tôi thì nhắm mắt, thưởng thức từng cái quẹt chổi, cảm giác nhồn nhột. Tôi luôn thích mê mỗi khi được trang điểm.

“Được rồi,” con bé nói. “Giờ cháu vẽ viền mắt nhé. Cô ngồi yên...”

“Bố dựng biển lên đây,” giọng Jim vang lên. Yên lặng một chút - rồi tôi nghe thấy tiếng leng keng quen thuộc, và một đám người ùa vào.

“Ừm... cô đừng mở mắt ra vội nhé, cô Becky.” Giọng Kelly nghe hơi căng thẳng. “Cháu không chắc là thế này có đúng không...?

“Để cô xem nào!”

Tôi mở mắt và chộp lấy cái gương trang điểm. Một mắt tôi đang lòe loẹt bóng mắt hồng, với mí trên viền đỏ nhoe nhoét. Tôi trông như mắc một bệnh mắt bí ẩn nào đấy.

“Kelly!”

“Mẫu này trong Elle đấy!” nó nói một cách tự vệ, chỉ vào bức ảnh một người mẫu. “Màu đỏ vhồng đang là mốt!”

“Trông cô như quái vật ấy!” tôi không thể không bật cười khi thấy khuôn mặt nhìn nghiêng của mình. Cả đời tôi chưa bao giờ trông tệ như thế. Tôi nhìn lên xem có khách hàng nào để ý không và tiếng cười của tôi chết lịm.

Jess đang vào cửa hàng cùng những khách hàng khác.

Trông chị lạnh lùng hiếu chiến quá, khá xa với cái cô bé mười một tuổi gầy giơ xương đứng chờ ở trạm xe bus đó. Chị liếc xéo đống tạp chí, túi đựng đồ trang điểm, và tất cả đồ trang điểm đang vương vãi trên bàn tôi. Rồi chị quay lưng không nói một lời và bắt đầu bới trong giỏ đồ hộp giảm giá.

Tiếng ồn ào của cửa hàng nhỏ dần rồi im bặt. Tôi chắc mọi người đều biết chuyện gì đang diễn ra.

Tôi liếc Jim, anh gật đầu khuyến khích.

“À... ờ... chị Jess,” tôi bắt đầu. “Em đã đến gặp chị sáng nay. Em muốn giải thích...”

“Chẳng có gì mà giải thích.” Chị thô lỗ quay lại với đống đồ hộp, thậm chí còn không buồn nhìn tôi. “Chị không biết em còn ở đây làm gì.”

“Cô ấy ở đây trang điểm với cháu,” Kelly thật thà nói. “Đúng không, cô Becky?”

Tôi hướng một nụ cười biết ơn đến Kelly, nhưng mọi sự chú ý của tôi vẫn đang dồn vào Jess.

“Em ở đây bởi vì em muốn nói chuyện với chị. Và để... để xin lỗi. Em có thể mời chị đi ăn tối nay không?”

“Chị không nghĩ là chị ăn mặc đủ đẹp để đi ăn tối với em, Becky ạ.” Jess nói, vô cảm. Mặt chị đanh lại và không cảm xúc - nhưng tôi có thể nhìn thấy nỗi đau ẩn trong.

“Chị Jess...”

“Và dù sao thì chị cũng bận.” Jess chất ba hộp méo lên quầy, cùng với một hộp mất nhãn và giảm giá còn mười xu. “Anh có biết cái này là cái gì không, Jim?”

“Cocktail hoa quả, tôi nghĩ thế.” Anh nhíu mày. “Nhưng cũng có thể là cà rốt...”

“OK. Tôi lấy nó.” Chị rải vài đồng bảng lẻ lên quầy và lôi từ túi xách ra một cái túi giấy nhăn nhúm. “Tôi không cần túi đâu. Cảm ơn.”

“Thế thì một buổi tối khác vậy!” tôi tuyệt vọng nói. “Hoặc là ăn trưa...”

“Becky, để chị yên.”

Chị sải bước ra khỏi cửa hàng còn tôi cứ ngồi đó, mặt nóng bừng như thể vừa ăn tát xong. Dần dần tiếng xì xào không rõ chuyển thành lời thì thầm, rồi biến thành một cuộc buôn chuyện sôi nổi. Tôi biết người ta nhìn tôi tò mò khi đến quầy thanh toán. Nhưng tôi thấy mình quá thảm hại rồi, không quan tâm đến họ được nữa.

“Cô không sao chứ, cô Becky?” Kelly nói, chạm nhẹ vào vai tôi.

“Cô lại làm hỏng rồi.” Tôi thõng tay xuống - một cử chỉ tuyệt vọng. “Cháu thấy cô ấy rồi đấy.”

“Cô ấy lúc nào chẳng bướng bỉnh thế.” Jim lắc đầu. “Thậm chí cả khi còn bé. Cô ấy là kẻ thù lớn nhất của chính mình, cái cô Jess ấy. Nghiêm khắc với bản thân đồng thời nghiêm khắc với cả thế giới.” Anh ngưng lại, lau vài vết bẩn trên con dao Stanley. “Cô ấy hẳn sẽ nghiêm khắc với một người em gái như cô, Becky.”

“Ôi, quá là tệ ấy,” Kelly hùng hồn nói. “Cô chẳng việc gì phải cần cô ấy! Qu chuyện cô ấy là chị gái cô đi. Vờ như cô ấy chẳng hề tồn tại!”

“Không đơn giản vậy, đúng không?” Jim nói. “Với người nhà thì không thể dễ như vậy được. Cô không thể bỏ đi dễ dàng như thế.”

“Tôi không biết nữa.” Tôi nhún vai yếm thế. “Có lẽ chúng tôi có thể như thế. Ý tôi là, chúng tôi đã sống hai mươi bảy năm trời mà chẳng hề biết đến sự tồn tại của nhau...”

“Và cô muốn thêm hai mươi bảy năm nữa sao?” Jim nhìn tôi, bất chợt nghiêm mặt. “Ở đây chỉ có hai người thôi. Chẳng ai trong số hai người có chị em gái cả. Hai người có thể trở thành bạn tốt của nhau.”

“Đấy đâu phải lỗi của tôi...” Tôi bắt đầu tự vệ, đến cuối câu bỗng lí nhí khi nhớ lại bài phát biểu nhỏ của mình tối qua. “Ừm, đó không hoàn toàn là lỗi của tôi...”

“Tôi đâu có nói đó là lỗi của cô,” Jim nói. Anh phục vụ hai khách hàng khác rồi quay lại tôi. “Tôi có ý này. Tôi biết tối nay Jess làm gì. Thật ra thì tôi cũng sẽ đến đó.”

“Thật ư?”

“Ừ. Một cuộc mít tinh phản đối vì vấn đề môi trường ở địa phương. Mọi người đều đến đó.” Mắt anh lấp lánh. “Sao cô không đi cùng nhỉ?”

***

TIN NHẮN GỬI FAX

Người nhận: LUKE BRANDON

APHRODITE TEMPLE HOTEL

CYPRUS

Người gửi: SUSAN CLEATH-STUART

Ngày 06 tháng 06 năm 2003

KHẨN CẤP

Luke

Becky không có nhà. Không ai thấy cô ấy ở đâu cả. Tôi vẫn không thể gọi di động cho cô ấy.

Tôi bắt đầu thấy lo.

Suze

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.