Nếu Tớ Có Thể

Chương 10: Gặp gỡ vũ điềm điềm




“Cô làm thế nào hả, Sachs?”

Đứng cạnh sông Hudson hôi thối, cô nói chuyện với Rhyme qua máy bộ đàm. “Tôi nhớ là tôi có nhìn thấy cảng tàu cứu hoả ở Battery Park. Họ kiếm mấy người thợ lặn và đến chỗ cầu cảng chỉ trong ba phút. Trời ạ, anh phải xem cái tàu ấy chạy! Một ngày nào đó tôi cũng muốn lái thử một cái.”

Rhyme kể với cô về người lái xe taxi cụt ngón.

“Thằng chó chết!” Cô nói, tặc lưỡi ghê tởm. “Con chồn ấy lừa tất cả chúng ta.”

“Không phải tất cả chúng ta”, Rhyme rụt rè nhắc cô.

“Tức là Dellray đã biết tôi lấy chứng cứ. Anh ta có tìm tôi không?”

“Anh ta nói anh ta quay về toà nhà kiểu liên bang. Có thể để quyết định xem bắt ai trong chúng ta trước. Hiện trường ở đó thể nào, Sachs?”

“Tệ lắm”, cô báo cáo. “Hắn đỗ xe trên sỏi...”

“Tức là không có dấu chân.”

“Còn tệ hơn thế. Thuỷ triều làm dâng nước trong ống cống và chỗ hắn đỗ xe bây giờ đang ngập nước.”

“Quỷ thật”, Rhyme lẩm bẩm.” Không dấu vết, không dấu tay, chẳng có gì. Họ sẽ để ông ta trong bệnh viện một, hai ngày.”

“Ông ta không nói cho chúng ta biết thông tin gì ư?”

Sachs đến chỗ Banks. Anh ta đang phỏng vấn William Everett.

“Hắn không to lắm”, người đàn ông nghiêm trọng nói, cẩn thận quan sát thanh nẹp bó bột được nhân viên y tế buộc vào tay mình. “Hắn ta không được khoẻ lắm, không phải là người có cơ bắp. Nhưng hắn khoẻ hơn tôi. Tôi tóm hắn nhưng hắn kéo tay tôi ra.”

“Mô tả?” Banks hỏi.

Everett nhớ lại bộ quần áo tối màu và chiếc mặt nạ trượt tuyết. Đó là tất cả những gì ông có thể nhớ được.

“Tôi phải nói với cậu một việc”, Everett giơ cánh tay băng bó của mình lên. “Hắn rất ác. Tôi đã nói với cậu là tôi tóm lấy hắn. Tôi không nghĩ ngợi gì – đơn giản là tôi đã hoảng loạn. Nhưng hắn đã lên cơn điên thực sự. Vì thế hắn bẻ ngón tay tôi.”

“Trả thù à?” Banks hỏi.

“Tôi đoán thế. Nhưng đó không phải là phần kỳ quặc.”

“Không?”

“Kỳ quặc là hắn lắng nghe.”

Viên thám tử trẻ tuổi ngừng viết. Nhìn sang Sachs.

“Hắn ép tay tôi thật chặt vào tai hắn và bẻ ngón tay tôi khi nó gáy. Như thế hắn lắng nghe. Và thích thú.”

“Anh có nghe thấy không, Rhyme?”

“Có. Thom, thêm điều này vào hồ sơ của chúng ta. Thế nhưng tôi vẫn không biết điều này nghĩa là gì. Ta sẽ phải suy nghĩ về nó.”

“Có dấu hiệu nào của vật chứng không?”

“Vẫn chưa.”

“Đan lưới đi Sachs. À, mà lấy cả... của nạn nhân.”

“Quần áo? Tôi đã bảo ông ta rồi. Tôi – Rhyme, anh ổn chứ?” Cô nghe thấy tiếng ho.

Đường truyền bị đứt ngay tức khắc. Một giây sau anh trở lại. “Anh có đấy không, Rhyme? Mọi việc ổn chứ?”

“Ổn cả”, anh nói nhanh. “Đi thôi. Đan lưới đi.”

Cô khảo sát hiện trường đang được những ngọn đèn halogen của ESU soi sáng. Thật khó chịu. Hắn đã ở đây. Hắn đã đi trên con đường trải sỏi cách đây vài feet. Nhưng bất kể hắn có để lại vật chứng gì thì chúng đã nằm sâu mấy inch dưới làn nước mờ đục. Cô chậm rãi kiểm tra nền đất. Lui và tới.

“Tôi chẳng nhìn thấy gì cả. Manh mối có thể đã bị cuốn đi mất rồi.”

“Không đâu, hắn quá thông minh để không tính đến thuỷ triều. Manh mối sẽ ở trên chỗ đất khô đâu đó.”

“Tôi có một ý”, cô bất ngờ nói. “Anh đến đây đi.”

“Cái gì?”

“Khám nghiệm hiện trường cùng tôi, Rhyme.”

Im lặng.

“Rhyme, anh nghe tôi nói không?”

“Cô đang nói với tôi đấy à?” Anh hỏi.

“Anh trông giống như De Niro[116]. Anh không diễn giỏi như De Niro. Anh biết không? Một cảnh trong phim Taxi Driver?”

Rhyme không cười. Anh nói: “Lời thoại là: Mày đang nhìn tao đấy à? chứ không phải nói với tao.”

Sachs tiếp tục, không chút bối rối. “Tới đây đi. Khám nghiệm hiện trường với tôi.”

“Tôi sẽ sải đôi cánh của mình. Không, tốt hơn là tôi sẽ tự phóng tôi ra đó. Thần giao cách cam, cô biết rồi đấy.”

“Đừng đùa nữa. Tôi nghiêm chỉnh đấy.”

“Tôi...”

“Chúng tôi cần anh. Tôi không thể tìm được manh mối để lại.”

“Nhưng mà chúng sẽ ở đó. Cô chỉ cần cố thêm chút nữa thôi.”

“Tôi đan lưới hai lần rồi.”

“Thế thì cô đã khoanh vùng hơi hẹp. Thêm vài feet nữa và tiếp tục đi. 823 vẫn chưa kết thúc đâu, không phải bây giờ.”

“Anh đang đánh trống lảng đấy. Đến đây và giúp tôi với.”

“Bằng cách nào?” Rhyme hỏi. “Tôi làm việc ấy bằng cách nào?”

“Tôi có một người bạn cũng gặp khó khăn”, cô bắt đầu, “và anh ta...”.

“Ý cô là, anh ta là một người tàn tật”, Rhyme chỉnh lại. Mềm mỏng nhưng chắc chắn.

Cô tiếp tục: “Sáng nào người sĩ quan phụ tá cũng đặt anh ấy vào xe lăn và anh ấy tự lái xe đi khắp nơi. Đi xem phim, đi...”

“Những cái xe lăn ấy...”, giọng Rhyme uể oải vang lên. “Không có tác dụng gì với tôi...”

Cô ngừng nói.

Anh tiếp tục: “Vấn đề không phải ở chỗ tôi bị thương. Vấn đề là nếu tôi lên xe lăn sẽ rất nguy hiểm. Nó có thể...” – anh ngần ngại – “làm cho mọi chuyện xấu đi”.

“Tôi xin lỗi. Tôi không biết.”

Một lúc sau anh nói: “Tất nhiên là cô không biết.”

Hỏng mất vụ này rồi. Ôi trời. Người anh em...

Nhưng Rhyme không có vẻ gì tệ hơn sau lời nói hớ của cô. Giọng anh ta vẫn đều đặn, vô cảm. “Nghe này, cô phải tiếp tục tìm kiếm. Đối tượng của chúng ta đang khiến mọi thứ khó khăn hơn. Nhưng không phải là không thể... Tôi có một ý. Hắn là người dưới lòng đất, đúng không? Có thể hắn sẽ chôn chúng.”

Cô nhìn lên hiện trường.

Có thể ở kia... Cô nhìn thấy một ụ đất và lá cây trong một khóm cỏ cao gần con đường trải sỏi. Trông có gì bất ổn, cái ụ đất trông có vẻ như mới được đắp lên.

Sachs quỳ xuống cạnh nó, cúi đầu và dùng một cái bút chì gạt lá ra.

Cô quay mặt sang trái, thấy mình đang nhìn vào một cái đầu vươn cao, đầy răng nanh...

“Lạy Chúa tôi”, cô hét lớn, vấp ngã ra sau, phệt mông xuống đất, vội vàng lần tìm vũ khí.

Không...

Rhyme thét lên: “Cô không sao chứ?”

Sachs ngắm mục tiêu và cố gắng giữ vững, khẩu súng trên hai tay run rẩy. Jerry Banks chạy tới, khẩu Glock của anh ta đã được rút ra. Anh ta dừng lại. Sachs lồm cồm đứng dậy, nhìn vào thứ trước mặt họ.

“Trời ạ”, Banks thì thầm.

“Một con rắn – thật ra là bộ xương rắn”, Sachs nói với Rhyme. “Con rắn chuông. Mẹ kiếp.” Cô cất súng. “Nó được gắn vào một cái bảng.”

“Một con rắn?Hay đấy.” Giọng Rhyme có vẻ tò mò.

“Đúng rồi. Thực sự là thú vị”, cô lẩm bẩm. Cô đeo đôi găng cao su và nhấc những cái xương bị cuộn tròn. Cô lật ngược nó lại. "Sự biến hình"

“Cái gì?”

"Nhãn dán dưới đế. Tên cửa hàng bán thứ này, tôi đoán thế. 604 Broadway.”

Rhyme nói: “Tôi sẽ bảo Những Chàng trai Dũng cảm của chúng ta kiểm tra xem. Chúng ta có gì nhỉ? Nói tôi nghe về manh mối đi.”

Chúng nằm phía dưới con rắn. Trong một cái túi. Tim cô đập mạnh khi quỳ xuống bên cái túi.

“Một cuốn sách bằng diêm”, cô nói.

“Được rồi, có thể hắn nghĩ tới việc đốt nhà. Trên đó có in gì không?”

“Không. Nhưng có vết bẩn gì đó. Như dầu bôi trơn Vaseline. Có điều nó bốc mùi.”

“Tốt, Sachs – luôn phải ngửi thử vật chứng mà ta không chắc chắn lắm. Có điều cần chính xác hơn.”

Cô cúi xuống gần hơn.”Ối...”

“Thế là không chính xác.”

“Có thể là lưu huỳnh.”

“Có thể có gốc nitrate. Chất nổ. Tovex[117]. Có phải màu xanh dương không?”

“Không, trắng như sữa.”

“Thậm chí nó có thể sai bét, tôi hình dung đó là loại chất nổ thứ cấp. Loại ổn định. Còn gì nữa không?”

“Một mẩu giấy nữa. Có gì đó ở đây.”

“Cái gì, Sachs? Tên hắn, địa chỉ của hắn, thư điện tử?”

“Giống như giấy từ một tờ tạp chí. Tôi thấy một bức ảnh đen trắng nhỏ. Giống như một phần của toà nhà nhưng không nhìn thấy được là phần nào. Dưới đó có một dòng ngày tháng. Ngày Hai mươi sáu tháng Năm năm 1906.”

“Năm, hai mươi, không-sáu. Không hiểu có phải mã gì không. Hay là một địa chỉ. Tôi phải nghĩ thêm về điều này. Còn gì nữa không?”

Cô nghe thấy anh ta thở dài.”Được rồi. Về thôi, Sachs. Mấy giờ rồi nhỉ? Lạy Chúa tôi, gần một giờ sáng rồi. Lâu lắm rồi tôi không thức muộn thế này. Về thôi, để xem ta có gì.”

Trong tất cả các khu của Manhattan, Lower East Side là nơi ít thay đổi nhất trong lịch sử thành phố.

Tất nhiên là nhiều thứ đã biến mất. Những bãi chăn thả. Những toà nhà kiên cố của John Hancock và những người nổi tiếng trong chính quyền thời đó. Der Kolek, hồ nước ngọt lớn (cái tên Hà Lan của nó cuối cùng bị biến thành “The Collect”, miêu tả chính xác hơn thì là một cái ao ô nhiễm khủng khiếp). Khu Five Points nổi tiếng – trong những năm 1800 là dặm vuông nguy hiểm nhất trên thế giới – nơi mà chỉ một toà nhà cho thuê, như toà nhà Gates of Hell đổ nát, có thể là nơi chứa chấp tới hai, ba trăm tên giết người mỗi năm.

Nhưng vẫn còn lại hàng nghìn toà nhà cũ – những toà nhà cho thuê từ thế kỷ XIX và những ngôi nhà khung xây kiểu thuộc địa, những ngôi nhà hàng phố bằng gạch kiểu liên bang trước đó, những hội trường Baroque, một vài toà nhà công cộng kiểu Ai Cập được xây dựng theo lệnh của viên Nghị sĩ tha hoá Fernando Wood. Một số khác đã bị bỏ hoang, mặt tiền của chúng bám đầy cây cỏ, sàn nhà bị lũ cây non ương bướng làm nứt vỡ. Nhưng nhiều toà nhà vẫn còn được sử dụng; đó là mảnh đất tội lỗi của Tammany Hall, của xe đẩy và công xưởng khổ sai, toà nhà định cư Phố Henry, những vở hài kịch tục tĩu của Minsky và Yiddish Gomorra nổi tiếng – tên mafia người Do Thái. Khu vực sinh ra những hình thái như vậy không thể chết một cách dễ dàng.

Khu vực này chính là nơi Kẻ Tầm Xương, lái chiếc taxi chở người phụ nữ gầy gò và cô con gái của cô ta đến.

Thấy cảnh sát đang theo dõi mình, James Schneider lại trườn xuống đất, như một con rắn, tìm kiếm nơi ẩn nấp – người ta nghi ngờ là ở trong những căn phòng của rất nhiều toà nhà cho thuê của thành phố (mà độc giả có thể tình cờ nhận ra là “nhà trọ” vẫn còn đang rất thịnh hành). Và hắn im hơi lặng tiếng suốt mấy tháng.

Khi lái xe về nhà, Kẻ Tầm Xương thấy quanh mình không phải là Manhanttan của những năm 1990 – những quán ăn nhanh Hàn Quốc, những cửa hàng bánh sừng bò ướt át bẩn thỉu, những cửa hiệu cho thuê phim khiêu dâm, những cửa hàng quần áo trống rỗng – mà là một thế giới mộng mơ của những người đàn ông đội mũ quả dưa, những người phụ nữ mặt váy phồng sột soạt, viền và gấu dây đầy bùn bẩn ngoài phố. Những chiếc xe độc mã và tam mã, không khí tràn ngập mùi khí metal đôi khi dễ chịu, đôi khi thật kinh tởm.

Nhưng có động cơ xuẩn ngốc, không mỏi mệt nào đó bên trong thúc giục hắn phải làm mới bộ sưu tập của mình, ép hắn ra khỏi nơi lẩn trốn để tìm kiếm một người công dân lương thiện nữa; một thanh niên mới tới thành phố để hợc đại học.

Lái xe qua Quận Mười tám nổi tiếng, nơi đã từng là chỗ trú ngụ của gần mười lăm nghìn người, bị nhồi nhét vào một nghìn khu nhà đổ nát. Khi mọi người nghĩ tới thế kỷ XIV, họ nghĩ tới màu nâu đỏ – màu của những bức ảnh chụp thời đó. Nhưng không phải vậy, Manhattan xưa kia có màu đá. Với làn khói bụi làm nghẹn thở, sơn tường đắt giá và ánh sáng mờ mờ, thành phố hình thành từ nhiều sắc độ của màu xám và màu vàng.

Schneider lẩn lút theo sau chàng trai và chuẩn bị tấn công. Nhưng cuối cùng lương tâm của thần May mắn lên tiếng. Hai cảnh sát đã xuất hiện đúng lúc. Họ nhận ra Schneider và đuổi theo. Tên sát nhân chạy sang phía đông, chạy qua kỳ quan thiết kế khi đó, cầu Manhattan, cây cầu được xây xong vào năm 1909 hai năm trước khi sự việc này xảy ra. Nhưng hắn dừng lại giữa đường khi nhìn thấy cảnh sát chạy tới từ phía Brooklyn; họ đã nghe thấy tiếng huýt còi và tiếng súng từ những đồng nghiệp phía Manhattan.

Schneider, không mang vũ khí, lại bị pháp luật bao vây nên chỉ còn cách trèo lên thành cầu. Hắn hét lên những câu chỉ trích cảnh sát điên loạn, kết tội họ đã phá hoại cuộc đời hắn. Từ ngữ của hắn ngày càng điên loạn hơn. Lúc cảnh sát lại gần, hắn nhảy từ thành cầu xuống sông. Một tuần sau, một người hoa tiêu phát hiện ra thi thể hắn trên bờ đảo Welfare, gần Hell Gate. Chẳng còn lại gì nhiều, vì cua cáy và rùa đã làm việc rất cần cù. Chúng chẳng để lại cho Schneider chút gì ngoài những khúc xương mà hắn đã từng tôn thờ.

Hắn đánh chiếc taxi vào con phố trải sỏi East Van Brevoort, và dừng lại trước một toà nhà. Hắn kiểm tra hai sợi dây bẩn thỉu mà hắn đã chăng thấp dưới cửa để bảo đảm rằng không có ai vào nhà. Một chuyển động bất ngờ làm hắn giật mình và hắn lại nghe thấy tiếng gầm gừ sâu trong cổ họng của những con chó, mắt chúng màu vàng, răng màu nâu, cơ thể lấm tấm sẹo và vết lở loét. Hắn lần tay tìm khẩu súng ngắn nhưng chúng bất ngờ quay đi, vừa sủa ăng ẳng vừa đuổi theo một con mèo hay con chuột trong ngõ.

Hắn không nhìn thấy ai trên vỉa hè nóng bức. Hắn mở khoá cửa nhà để xe ngựa, sau đó quay về xe và lái nó vào ga ra, đỗ bên cạnh chiếc Taurus.

Sau cái chết của tên tội phạm, dấu vết của hắn được các thám tử thu thập và nghiên cứu kỹ. Nhật ký của hắn cho thấy hắn đã giết tám công dân lương thiện của thành phố. Hắn cũng là kẻ trộm mộ, vì từ những trang viết của hắn có một điều chắc chắn là (nếu như những tuyên bố của hắn được coi là sự thực) hắn đã xâm hại một số nơi yên nghỉ thiêng liêng trong các nghĩa địa quanh thành phố. Không nạn nhân nào sỉ nhục hắn; phần lớn họ là những công dân trung thực, cần cù và vô tội. Tuy vậy, hắn vẫn không thấy mình có lỗi. Thực sự, hắn có vẻ hoạt động với một sự ảo tưởng điên rồ rằng, hắn đang ban cho nạn nhân của mình những ân huệ.

Hắn dừng lại, gạt mồ hôi ra khỏi miệng. Cái mặt nạ trượt tuyết làm hắn ngửa. Hắn kéo người phụ nữ và đứa con gái ra khỏi cốp xe, vào gạt ra. Cuối cùng thì hắn cũng còng được họ.

“Thằng khốn nạn!” Cô ta rống lên. “Không được động vào con tao. Mày mà động vào nó, tao giết mày.”

Hắn ôm chặt quanh ngực cô ta và dán miệng cô ta lại. Sau đó hắn cũng làm thế với đứa bé con.

“Thịt da có thể khô héo và yếu ớt” – (tên tội phạm viết bằng nét chữ thô bạo nhưng chắc chắn ) – “xương cốt là phần khỏe nhất của cơ thể. Da thịt chúng ta có già đi, nhưng xương cốt chúng ta luôn trẻ mãi. Đó là mục tiêu cao quý của tôi, tôi không hiểu tại sao lại có người muốn tranh cãi với nó. Tôi làm điều tử tế cho tất cả bọn họ. Giờ đây họ bất tử. Tôi giải phóng họ. Tôi đã lấy họ đến tận xương”.

Hắn kéo họ xuống tầng hầm và đẩy mạnh người phụ nữ xuống sàn nhà, đứa con gái ở cạnh cô ta. Buộc còng tay của họ vào tường bằng dây phơi. Sau đó quay lên cầu thang.

Hắn nhặt chiếc ba lô màu vàng của cô ta ở sau xe taxi, đi qua một cánh cửa gỗ bắt vít vào phòng chính của toà nhà. Hắn định vứt chúng vào góc nhà nhưng vì một lý do nào đó hắn lại thấy tò mò về những đồ vật này. Hắn ngồi xuống trước một bức bích hoạ – một bức tranh vẽ tên đồ tể, một tay cầm dao, một tay cầm khúc thịt bò.

Hắn đọc nhãn hành lý. Carole Ganz. Carole với chữ E. Tại sao lại thừa một chữ? Hắn băn khoăn. Cái va li chẳng có gì ngoài quần áo. Hắn lục lọi cái ba lô. Hắn thấy tiền ngay lập tức. Phải có đến bốn, năm nghìn đô la. Hắn nhét lại nó vào ngăn kéo khoá.

Có một tá đồ chơi trẻ con: búp bê, hộp màu nước, một gói đất nặn, bộ đồ chơi Mr. Potato Head[118]. Trong đó còn có một máy chơi nhạc dòng Discman đắt tiền, nửa tá đĩa CD và cái đài đồng hồ du lịch hiệu Sony.

Hắn nhìn mấy bức ảnh. Ảnh Carole và đứa con. Trong hầu hết các bức ảnh, người phụ nữ trông rất sầu não. Một số, trông cô ta có vẻ vui hơn. Không có ảnh nào có cả Carole và chồng dù cô ta đeo nhẫn cưới. Nhiều bức ảnh là hai mẹ con với một cặp – một người đàn bà to béo mặc bộ đồ bà già cũ kỹ và một người đàn ông hói, để râu, mặc áo sơ mi vải flanenl.

Kẻ Tầm Xương nhìn rất lâu vào bức hình đứa bé con.

Số phận của Maggie O'Connor đáng thương, một cô bé mỏng manh chưa đấy tám tuổi, đặc biệt bất hạnh. Vận đen của cô bé, như cảnh sát phỏng đoán, là cô bé đã bắt gặp James Schneider khi hắn đi phi tang một trong những nạn nhân của mình.

Một cô bé, cư dân khu “Hell's Kitchen” nổi tiếng, ra ngoài nhổ lông đuôi ngựa. Trong khu vực nghèo khó này của thành phố có rất nhiều súc vật chết. Bọn trẻ ở đây đã quen với việc đan lông đuôi ngựa thành nhẫn và vòng đeo cổ – đồ nữ trang duy nhất mà những đứa trẻ cù bơ cù bất như nó có thể dùng để trang điểm cho mình.

Da và xương, da và xương.

Hắn đặt bức ảnh lên bệ lò sưởi, cạnh đống xương nhỏ mà hắn đang làm dở sáng nay và một số thứ hắn ăn trộm ở cửa hàng nơi hắn tìm thấy con rắn.

Người ta ngờ rằng Schneider đã thấy Maggie gần hang ổ của hắn chứng kiến cảnh tượng rùng rợn khi hắn giết một trong những nạn nhân. Hắn hạ cô bé nhanh hay chậm, điều này ta không đoán được. Nhưng không giống như những nạn nhân khác của hắn, những người mà cuối cùng thi thể của họ cũng được tìm thấy – thi thể của Maggie O'Connor yếu đuối không bao giờ được tìm thấy.

Kẻ Tầm Xương xuống cầu thang.

Hắn giật tấm băng dính trên miệng người mẹ, người phụ nữ hổn hển hít không khí, nhìn hắn với cơn giận dữ lạnh lùng. “Mày muốn gì?” Cô ta the thé hỏi. “Cái gì?”

Cô ta không gầy như Esther nhưng, ơn Chúa, cô ta không giống Hanna Goldschmidt chút nào. Hắn có thể nhìn thấy thật nhiều tâm hồn cô ta. Hàm dưới hẹp, xương đòn. Và qua lần váy mỏng màu xanh, dấu xương chậu – một kết nối của xương chậu, đốt háng và xương mu. Những cái tên nghe như những vị thần La Mã.

Con bé con vặn vẹo người. Hắn nghiêng người ra trước và đặt tay lên đầu nó. Xương sọ không phát triển từ một miếng xương duy nhất mà từ tám miếng xương riêng biệt, và đỉnh đầu nối lên như những mảnh tam giác trên mái vòm sân Astrodome. Hắn chạm vào xương chẩm và xương đỉnh của đầu con bé. Và hai mảnh xương nhạy cảm, ưa thích của hắn quanh hốc mắt – xương bướm và xương sàng.

“Thôi đi!” Carole lắc đầu giận dữ. “Tránh xa con bé ra.”

“Suỵt...” Hắn đưa ngón tay đeo găng của mình lên môi. Hắn nhìn con bé con, nó đang khóc và ép chặt người vào mẹ.

“Maggie O'Connor”, hắn thủ thỉ, nhìn khuôn mặt con bé. “Maggie bé bỏng của ta.”

Người phụ nữ giận dữ nhìn hắn.

“Con có mặt không đúng lúc, đúng nơi rồi. Con đã nhìn thấy ta làm gì rồi?”

Trẻ trung đến tận xương cốt.

“Mày đang nói gì thế?” Carole thì thầm. Hắn chuyển sự chú ý sang cô.

Kẻ Tầm Xương luôn băn khoăn về người mẹ của Maggie O'Connor.

“Chồng cô đâu?”

“Anh ấy chết rồi.” Cô cục cằn nói. Sau đó nhìn đứa con và nói nhẹ nhàng hơn. “Anh ấy bị giết hai năm trước. Này, chỉ cần thả con gái tôi thôi. Nó không thể nói bất cứ điều gì về anh với người khác. Này anh kia... anh có nghe tôi nói không? Làm gì thế?”

Hắn tóm tay Carole và nhấc lên.

Hắn gập xương bàn tay, chỗ cổ tay. Các đốt ngón tay – những ngón tay nhỏ xíu. Bóp vào xương.

“Không, đừng làm thế. Tôi không thích thế. Làm ơn đi!” Giọng cô vang lên trong cơn hoảng loạn.

Hắn mất tự chủ và không thích cảm giác này chút nào. Nếu hắn muốn thành công ở đây, với các nạn nhân, với kế hoạch của hắn thì hắn phải chiến thắng sự ham muốn đang xâm chiếm hắn – cơn điên đang kéo hắn sâu hơn vào quá khứ, lẫn lộn ngày đó và bây giờ.

Trước đây và sau đó...

Hắn cần đến tất cả trí tuệ và sự khéo léo của mình để kết thúc những gì hắn đã bắt đầu.

Và lúc này... lúc này...

Cô ta thật nhỏ nhắn, cô ta thật hoàn hảo. Hắn nhắm mắt và hình dung lưỡi dao cào trên xương ống chân cô ta sẽ hát lên như mã vĩ của một cây đàn violin cổ.

Hắn thở gấp gáp, mồ hôi đổ như tắm.

Cuối cùng, khi mở mắt hắn thấy mình đang nhìn vào đôi giày của cô. Hắn không có nhiều xương chân trong tình trạng tốt. Những người vô gia cư bị hắn bắt trong mấy tháng qua... họ đều bị còi xương và loãng xương, ngón chân họ bị những đôi giày không vừa chân làm hỏng.

“Tôi muốn thoả thuận với cô”, hắn nghe thấy mình đang nói.

Cô nhìn xuống con gái. Đang ép chặt hơn vào người cô.

“Tôi sẽ thoả thuận. Tôi sẽ để cô đi nếu cô để tôi làm mấy việc.”

“Việc gì?” Carole thầm thì.

“Cho tôi bóc da cô.”

Cô chớp mắt.

Hắn thầm thì. “Cho phép tôi. Làm ơn đi? Một chân. Chỉ một chân thôi. Nếu cô làm thế tôi sẽ để cô đi.”

“Cái gì...?”

“Đến tận xương.”

Cô hoảng sợ nhìn hắn chằm chằm. Nuốt nước bọt.

Điều đó có ý nghĩa gì? Hắn nghĩ. Kiểu gì thì cô ta cũng đã gần đó lắm rồi, thật gầy, thật góc cạnh. Đúng là có gì đó khác biệt ở cô ta – không như những nạn nhân khác.

Hắn cất khẩu súng ngắn và lấy dao trong túi. Mở nó ra với một tiếng động làm giật mình.

Cô không động đậy, ánh mắt cô trượt xuống đứa con gái. Quay lại phía hắn.

“Mày để bọn tao đi?”

Hắn gật đầu: “Cô chưa nhìn thấy mặt tôi. Cô không biết đây là đâu.”

Một lúc lâu. Cô nhìn quanh tầng hầm. Cô lẩm nhẩm một cái tên. Ron hay Rob.

Mắt vẫn nhìn hắn, cô giơ chân ra và đưa về phía hắn. Hắn kéo giày ra khỏi chân cô.

Hắn nắm lấy chân cô. Xoa nắn những mạch máu dễ vỡ.

Cô ngửa người ra sau, những sợi gân nổi lên trên cổ cô thật đẹp. Mắt cô nhắm chặt. Hắn chăm sóc da cô bằng lưỡi dao.

Tay nắm chắc con dao.

Cô nhắm mắt, hít vào và phát ra một tiếng khóc yếu ớt. “Làm đi”, cô thầm thì. Và xoay mặt con bé ra chỗ khác. Ôm nó thật chặt.

Kẻ Tầm Xương hình dung ra cô trong bộ quần áo thời Victoria, váy lồng đăng ten đen. Hắn thấy ba người họ ngồi với nhau ở Delmonico hay đi trên Đại lộ Năm. Hắn nhìn thấy Maggie nhỏ bé cùng với họ, mặc bộ váy diêm dúa, đang dùng gậy đánh vòng khi họ đi qua cầu Canal.

Ngày đó và bây giờ…

Hắn đặt lưỡi dao hoen gỉ vào vòng cung chân cô.

“Mẹ ơi!” Con bé hét lên.

Có điều gì đó trong người hắn bật ra. Hắn bàng hoàng một lúc vì khiếp sợ điều hắn đang làm. Sợ chính hắn.

Không! Hắn không thể làm điều đó. Không phải với cô ta. Với Esther hay Hanna thì được. Hay với người tiếp theo. Nhưng không phải cô ta.

Kể Tầm Xương lắc đầu buồn bã và chạm bàn tay vào gò má cô. Hắn lại dán miệng cô bằng băng dính và cắt sợi dây buộc chân cô.

“Nào”, hắn lẩm bẩm.

Cô vùng vẫy hết sức nhưng hắn giữ chặt đầu cô và kẹp mũi cô cho tới khi cô ngất đi. Sau đó hắn vác cô lên vai và đi lên cầu thang, thận trong nhấc các túi bên cạnh lên. Rất cẩn thận. Hắn không muốn nó rơi. Lên cầu thang. Chỉ dừng lại một lần để nhìn Maggie O’Conner bé nhỏ, tóc quăn đang ngồi trên bụi bẩn, tuyệt vọng ngẩng đầu nhìn hắn.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.