Một Thời Say Đắm

Chương 20: Trở về tại khổ sai




Đứng ở một nơi nào đó cao nhất quan sát thành lạc Dương trong đêm, cảm giác hoàn toán khác biệt.

Vạn nhà trong thành đèn dầu lít nhít nhỏ như đom đóm trong bụi cỏ, lại như ngôi sao nhỏ rơi xuống trần thế. Sông Lạc Hà dưới ánh trăng giống như một dải lụa lộng lẫy, nhà nhà ở hai bên bờ sông phản chiếu ngược trong dòng nước dao động không dứt, khắp bầu trời ngôi sao sáng nhấp nháy, vô cùng đẹp đẽ, nhưng nếu ai không có tâm tình để ngắm nhìn thì vẻ đẹp ấy lại trở nên nhàm chán.

Đỗ Lương Dạ nhìn xuống dưới cho đến khi đầu choáng váng hoa mắt mới hốt hoảng không nhìn nữa.

Nàng lẳng lặng đứng trên gò núi dõi mắt nhìn xa xa hướng về thành Tây, ngọn lửa ở Hội Xuân lâu đã dần dần yếu đi, tiếng la khóc của mọi người vẫn rất vang động, càng có xu hướng tăng cao. Cho dù cách một khoảng xa nghe vẫn rất thê thảm, chỉ vì tử vong tới quá đột ngột, hàng trăm người trở tay không kịp, toàn bộ chưa kịp chuẩn bị tâm lý nên càng đặc biệt bi ai.

Trong lòng nàng nhớ đến phụ thân, tai nghe được những âm thanh bi thương trong lòng nàng nảy sinh một dự cảm không lành. Nhưng, đã phái người đi rồi mà chưa có tin tức về, tất cả đều hoàn toàn chưa rõ, nàng cố gắng kiềm chế sự bất an, một lần nữa lại tập trung vào đền miếu hoang ở dưới chân núi không cho mình tiếp tục suy nghĩ lung tung.

Ước chừng đến giờ hợi, ánh trăng chiếu cao, trời trong vô cùng.

Núi cũng không cao và dốc, nhưng ở sườn núi rừng cây tươi tốt, ngay cả ánh trăng tỏa sáng cũng không chiếu rọi hết vào được, bốn bề vẫn cứ vang lên những âm thanh giống như có cuộc hành quân đang đi xuyên qua khu rừng. Từ trên đỉnh núi nhìn xuống dưới chỉ thấy bóng dáng đền miếu hoang bên bở sông chao nghiêng, một trận hỗn chiến không nhận ra địch hay ta, chỉ có tiếng binh khí giao nhau âm thanh không dứt bên tai, thỉnh thoảng lại có ánh sáng cung lửa lập lòe, đó là kết quả của binh khí sắc bén phản xạ với ánh trăng mà thành.

Đỗ Lương Dạ lặng lẽ đứng yên, nhớ tới vết thương trên lưng của Mộ Dung Thu Thủy, nhớ ánh mắt lúc đó của hắn, trong lòng nàng lại quặn đau, nước mắt lần thứ hai lại tràn mi, không thèm khống chế, giống như muốn đem toàn bộ nước mắt của hai mươi năm qua một lần chảy bằng hết.

Nàng thường ngày hận nhất là người hay khóc, bởi vì lúc nhỏ đã hiểu, nước mắt trên đời này chỉ rẻ mạt và bạc bẽo, hoàn toàn không có chút thực tế, không đợi năm tháng thổi khô mà tự chúng được giói thổi khô. Vào giờ khắc này nó lại xảy ra lên người nàng thì mới hiểu được: nếu một người thật sự thương tâm tuyệt vọng đến cực điểm, thì chỉ biết khóc mà thôi.

“Ngươi vẫn không cam lòng sao?”

Ông ta quay đầu lại, ánh mặt lạnh thấu xương nhìn nàng chăm chú, giọng nói lạnh nhạt và cứng nhắc, hoàn toàn không còn chút dịu dàng và nhiệt tình như vừa mới đây.

Đỗ Lương Dạ nghe vậy sự bi thương càng trỗi dậy, nước mắt tuôn chảy ra không thể ngừng lại được, bỗng nhiên gục trong lòng ông ta khóc to. Tiếng khóc vang lên làm hộ vệ đứng canh giữ xung quanh cũng không dám ghé coi.

Nét mặt ông ta vô tình, cả người không động đậy đứng thẳng im lặng một lúc lâu rồi mới đưa tay ôm bờ vai nàng, khẽ vuốt ve mái tóc rối tung, dùng âm thanh tràn ngập hồi ức chậm rãi nói: “Dạ nhi, ngươi nhớ không, lần đầu tiên ngươi ở trong lòng ta khóc là nhiều năm trước ở Liêu Đông. Sáng sớm hôm đó ta lĩnh binh xuất phát không lâu thì người bên cạnh nói cho ta biết ngươi chạy đuổi theo đội quân, thời tiết lạnh như vậy, trên mặt đất băng tuyết kết rất dày, ngươi chỉ mặc chiếc áo bông cũ nát, chân trần dẫm trên mặt băng, té ngã trầy da mà cũng không thấy hề hấn gì…”

Đỗ Lương Dạ nghe đến đó, cả người có chút cứng đờ, nước mắt tự nhiên ngừng chảy.

Từ trong giọng nói thẫn thờ của ông ta, nàng dường như thấy mình của nhiều năm trước bần cùng khốn đốn, quần áo đơn sơ, theo phụ thân trên đường đi phương Bắc cùng với các quan lại thấp hèn bị lật đổ ép từ quan, năm đó đi theo ông ta thẩm tra có Phạm đại nhân. Bởi vì ôn dịch, bởi vì không có tiền bạc, nàng trước sau đều mất đi mẫu thân và đại ca. Đối với phụ thân nàng là một đả kích rất lớn, nếu được quyền lựa chọn cái chết, ông ta đương nhiên mong muốn người sống sót là nam hài tử của mình, đáng tiếc người muốn mà trời không cho. Haizz! Nàng năm đó…

“Năm đó ngươi chỉ mới mười hai tuổi, đôi chân lạnh ngắt đỏ ửng, khuôn mặt càng đỏ, khóe miệng lại bướng bỉnh quật cường, biết rõ mình không đuổi kịp vẫn nỗ lực đuổi theo, khi đó ta còn nghĩ, rốt cuộc là nữ hài tử này có sức mạnh gì mà có thể chịu đựng được?

Ông ta không nói nữa, trầm mặc trong chốc lát, bỗng nhiên cười đầy ý vị nói: “Dạ nhi, khi đó ngươi so với hiện giờ thông minh hơn…ngươi phải biết rằng, đại đa số sự vật trên đời này đều không trọn vẹn, vẹn toàn đôi bên cũng có nhưng quá ít, ngươi nên thông suốt…”

Nghe đến đó, Đỗ Lương Dạ đứng thẳng người lên, xoay người lau khô nước mắt, một lần nữa ngẩng lên, gương mặt đã trở nên giá lạnh, ánh mắt như băng hồ không chút gợn sóng.

Ông ta chắp tay đứng, thần sắc cực kỳ hờ hững và xa cách, mở miệng nói thản nhiên như thường ngày: “Trên đời này cũng rất kỳ diệu, đủ loại chuyện phát sinh, ngươi không bảo đảm ngày mai sẽ phát sinh cái gì để có thể xoay chuyển bất cứ lúc nào, nhưng Dạ nhi, không có giấc mộng nào là không thể xoay chuyển, cũng không có việc gì duy trì may mắn.”

Nàng khẽ hừ một tiếng, biểu thị nghe hiểu.

Ông ta bỗng nhiên cười: “Tin tưởng ta Dạ nhi, ta hiểu ngươi hơn so với ngươi hiểu bản thân mình…Ngươi rất thông minh, nhưng tính cách ngươi lại có chút không được mạnh mẽ, có đôi khi sẽ thúc đẩy ngươi bí quá hóa liều. Ha hả, đừng cho là ta không nhắc nhở ngươi, vận khí tốt của một người rất có hạn, ngươi không nên một lần đem ra dùng hết.”

Đỗ Lương Dạ lặng im không nói, vẫn duy trì tư thái đưa mắt xa xa, dáng người đứng thẳng tắp, dung nhan đẹp đẽ dưới ánh trăng trong trẻo nhưng lạnh lùng, ánh mắt sắc bén sáng rực như đao phong, mái tóc đen cùng cẩm bào bị gió núi thổi phấp phới tung bay giống như tiên giáng trần.

Ông ta đặt tay qua vai nàng, chăm chú theo ánh mắt nàng từ trên cao nhìn xuống, nói: “Lúc này nhiệm vụ đã hoàn thành, ngươi sẽ không cần phải xuất đầu lộ diện nữa. Đám người kia sau khi lập công, ta có thể ban thưởng cho bọn họ bạc, nữ nhân, thậm chí ta có thể phong quan ban tước cho chúng, nhưng đối với ngươi, ta chỉ có thể ban cho ngươi danh phận phúc tấn, đây là phần thưởng tốt nhất ta có thể ban cho ngươi.”

Ông ta dừng lại một chút, rồi nói tiếp: “Cũng là duy nhất.”

Những lời này lại một lần nữa khẳng định nàng không có lựa chọn nào khác.

Trên mặt Đỗ Lương Dạ mỉm cười.

Ông ta nhìn dáng vẻ tươi cười kia, dường như là bánh xe đã nghiền nát băng tuyết, có số mệnh lạnh lẽo, trong lòng bỗng nhiên nảy sinh một luyến tiếc đau đớn – là ông ta đã một tay bồi dưỡng nàng có ngày hôm nay, nàng không chỉ là dạ ưng của ông ta, còn là một phần thành tựu đắc ý nhất của ông ta. Chỉ cần một ngày ông ta không buông tay, nàng vĩnh viễn đừng mong thoát khỏi lòng bàn tay ông ta, đừng ai có mơ tưởng mà cướp đi, nhưng là hắn ta, khiến cho nàng đau khổ, tuyệt vọng, còn hơn thế nữa…vậy thì ông ta làm sao mà sống vui vẻ được? Ông ta làm sao không phải vì quyền lợi và con mồi? Làm sao không có thời gian đau khổ và tuyệt vọng? Nếu như ngay cả ông ta cũng thống khổ như thế, nàng dựa vào cái gì mà được hạnh phúc? Nàng có thể yêu một người nam nhân, nhưng người nam nhân này chỉ có thể là ông ta, cũng chỉ có thể là ông ta. Mộ Dung Thu Thủy là quái gì chứ, hắn ta không xứng.

Con ngươi của ông ta trở nên đen kịt, trái tim đau đớn dần dần bị sự tàn nhẫn thay thế, khóe miệng nhếch lên nụ cười tàn khốc, ánh mắt thay đổi, lạnh lùng nhìn về phía tòa đền miếu hoang ở dưới chân núi, trầm giọng quát: “Giết vài người có cần lâu như vậy không? Phùng Nhị và Tư Mã Trác rốt cuộc làm trò quỷ gì thế?”

Ông ta vừa dứt lời, lập tức có hộ vệ thổi kèn ra lệnh, âm thanh cứng cáp hùng hâụ xuyên qua rừng cây vang động bốn phương tám hướng, tiếng kèn thứ nhất vang lên, trong rừng bỗng nhiên dấy lên vô số cây đuốc, đem soi rọi lên toàn bộ đền miếu hoang hiện rất rõ ràng.

Từ vị trí độ cao Đỗ Lương Dạ nhìn xuống phía dưới, ánh lửa hiện ra vô cùng đẹp đẽ, kéo dài từ trong khu rừng uốn lượn xuống dưới, từng ngọn đuốc soi sáng từng cái bóng, bốn màu cờ vàng trắng hồng lam phân biệt rõ từ bốn phương hướng rất nhanh chóng phân bổ thẳng xuống, như sấm chớp còn không bằng lao xuống tòa đền miếu hoang, giống như thần binh thiên tướng.

Ánh lửa sáng rực chiếu xuống tòa đền miếu hoang như muốn thiêu cháy lên. Mặc dù cách một khoảng cách khá xa nhưng nàng vẫn cảm giác được sát khí sắc bén trong cảnh tàn sát khốc liệt, một đao nhất thương, một kiếm nhất thức, giống như đang tập kích hướng về phía trước mặt nàng.

Tiếng kèn vẫn tiếp tục kêu vang lên trong bóng đêm lạnh lẽo càng đặc biệt bi tráng, càng vô cung thê lương.

Đỗ Lương Dạ cúi đầu, ngửi thấy mùi dạ lan hương nồng đậm, trong đáy lòng vô hạn thê lương.

Bắt đầu từ hôm nay, tất cả những tình cảm ân ân oán oán sẽ không còn bất cứ can hệ gì với nàng nữa, nàng quyết ý từ nay về sau buông tay làm một người vô tình nhất. Những chuyện xưa coi như một ảo mộng khói hoa một thời, đời người cũng không đáng để miệt mài theo đuổi.

***

Ôn Lương Tương chống thắt lưng cúi xuống dùng mặt sông lạnh băng để rửa mặt, xóa sạch dấu vết son phấn lộ ra dung nhan trắng thuần khiết, rồi ngoảnh đầu lại nói với Duyệt Ý: “Vết thương ở chân có nặng lắm không?”

Duyệt Ý xoa chân nhỏ, cắn răng nói: “Vẫn còn đi được.”

Chân của cô ta bị thương trong trận hỗn chiến ở Hội Xuân Lâu, bị trúng ám khí tẩm độc. May chỉ là loại độc thông thường không gây trở ngại cho cô ta, chỉ là làm cho vết thương ở chân khá sâu, mỗi khi đi đứng lại chảy máu không ngừng.

Ôn Lương Tương vén ống quần của cô ta lên, rửa sạch vết thương rồi băng bó lại, giúp cô ta lau sạch vết bẩn trên mặt, nhân tiện buộc gọn mái tóc rối loạn của cô ta.

Từ lúc Duyệt Ý đi theo Ôn Lương Tương cũng đã trải qua không ít sóng gió nhưng chưa bị kinh tâm động phách như lần này nên đến giờ vẫn có chút kinh hồn.

Ôn Lương Tương khẽ vỗ nhẹ vào má cô ta, trấn an: “Không sao rồi, chỉ cần bay qua phía tòa sơn kia…”

Còn chưa nói hết chợt nghe tiếng kèn hùng hậu, xoay người lại thấy hỏa long từ trên sườn núi xông xuống dưới, đi kèm theo đó là tiếng âm thanh đánh nhau kịch liệt, hội tụ lại thành một âm thanh rất lớn gần tòa miếu hoang.

Duyệt Ý kêu lên: “Bà chủ, xảy ra chuyện gì vậy?”

Ôn Lương Tương nhíu mày không trả lời.

Duyệt ý nghi ngờ mở to mắt, nói: “Chẳng lẽ là Mộ Dung Thu Thủy, hắn thực sự lừa chúng ta?”

Lúc này, phía sau bỗng có tiếng cười nhạo, âm thanh rất khẽ, giống như lời thì thầm. Trong lòng Duyệt Ý hoảng hốt, theo bản năng lật tay đánh ra một chưởng, chưởng lực giống như đá chìm đáy biển, đánh vào khoảng không.

Người kia lại cười một tiếng, thay đổi phương hướng.

Duyệt Ý không ngờ người kia khinh công giỏi như vậy, trong lòng càng sợ, định nhảy vọt người tới trước để phòng vệ, đã thấy Ôn Lương Tương bỗng nhiên xoay người lại, đôi mắt sáng rực giận hờn nhìn người ở phía sau mình, nói: “Ngươi giờ này mới đến ư?”

Trong giọng nói có ý trách cứ.

Duyệt ý vội xoay người lại nhìn, chỉ thấy trong đám cỏ lau một người đứng đó trang phục gấm hoa, dáng người thanh đĩnh, nhất là chiếc mặt nạ hồ điệp đeo trên mặt lộ ra đôi mắt đen kịt, môi đỏ răng trắng, phong thần tuấn tú.

Duyệt ý bật thốt lên:”A, là ngươi.”

Vô Song vừa đưa tay sửa sang lại mái tóc dài bị gió làm rối loạn, vừa cười nửa miệng liếc nhìn Duyệt Ý, sau đó mới quay sang nhìn Ôn Lương Tương, hừ nói: “Nếu không phải ta ở phía sau thay các ngươi ngăn cản đám truy binh, các ngươi có thể thoát được nhanh như vậy hay sao? Vậy mà còn oán giận ta tới chậm, ta còn đến rất nhanh.”

Ôn Lương Tương vẻ mặt lạnh lùng, nói: “Người của ta chết hết rồi, ngươi…”

Vô Song ngắt lời nàng: “Chẳng phải ngươi còn chưa chết đấy sao, những người khác sống chết có quan hệ gì với ta chứ?”

Ôn Lương Tương chán nản, khuôn mặt vốn tái nhợt lại càng trắng bệch như tờ giấy, nhưng đôi mắt lại sáng rực như muốn thiêu đốt người trước mắt.

Vô Song vẫn tỏ ra thản nhiên, nói: “Ngươi thương tiếc thủ hạ của ngươi, còn những người vô tội bị chết cháy, lẽ nào họ không có thân hữu huynh đệ ư?”

Ôn Lương Tương cứng họng, gương mặt đang trắng bệch lại đỏ ửng lên, kinh ngạc không thốt thành lời. Duyệt Ý nhất thời không biết rõ quan hệ của hai người họ, thấy bà chủ lộ ra thần sắc trước nay chưa từng có nên cũng không dám nói nhiều.

Ôn Lương Tương sắp xếp lại suy nghĩ, hỏi: “Họ Phạm kia là giả, người thật thực sự ở đâu?”

“Hắn căn bản không tiến vào Lạc Dương.”

“Lẽ nào tất cả đều là giả ư?”

Vô Song từ chối cho ý kiến: “Hắn có vào thành hay không không quan trọng, dù sao mục đích dụ các ngươi vào Lạc Dương đã đạt được rồi.”

Ôn Lương Tương trầm ngâm một chút, nói: “Những…việc này Mộ Dung Thu Thủy biết tất cả rồi phải không?”

“Đương nhiên.”

“Hắn biết rõ là một cái bẫy mà vẫn nhảy vào ư?”

Vô Song phì cười một tiếng, nói: “Đây chẳng phải mong muốn của ngươi hay sao?”

Ôn Lương Tương biến sắc: “Ngươi có ý gì?”

Vô Song giãn mày ra, khóe môi cong lên lọ ra dáng vẻ tươi cười quyến rũ lòng người, ung dung nói: “Bà chủ Ôn, ngươi hẳn là biết, khắp thiên hạ đối với Vô Song mà nói, không có gì gọi là tuyệt đối bí mật cả. Thế đạo hiện nay, sự giả dối của mọi người đơn giản là vì tiền tài, nhưng bà chủ Ôn lại đặc biệt hào phóng khí khái, đem tiền bạc mình cực khổ tích cóp từng tí một toàn bộ hiến cho đại tây nghĩa quân, thật sự là nữ trung hào kiệt.”

Ôn Lương Tương trầm mặc một chút, rồi cũng bật cười lên.

Vô Song cũng không nhìn nàng mà quay đầu nhìn trận hỗn chiến đang diễn ra tại đền miếu hoang xa xa, bỗng nhiên kéo trọng tâm câu chuyện lại: “Chuyện lần này, ai cũng đều biết là một cái bẫy, nhưng, con mồi này thật sự quá lớn làm người ta không thể cự tuyệt. Cho nên, Mộ Dung Thu Thủy đánh cược một lần.”

Hắn dừng lại, chăm chú nhìn về phía xa xa, thở dài vô hạn nói: “Đời người, có đôi khi chỉ là một canh bạc.”

Vậy thì, trong canh bạc này, Mộ Dung Thu Thủy thực sự sẽ thắng không?

Ôn Lương Tương theo ánh mắt hắn nhìn ra xa, chỉ thấy ở xung quanh đền miếu hoang ánh lửa sáng rực, tiếng chém giết nổi lên bốn phía, bóng người qua lại, toàn bộ tình cảnh đều hỗn loạn, căn bản không nhận ra địch ta.

Không sai, nàng đem tin tức Vương gia Thanh triều tới Lạc Dương tiết lộ cho Mộ Dung Thu Thủy biết là có ý muốn mượn đao giết người, nhưng chiếu theo tình hình hiện tại để xem, bọn họ vốn cũng là muốn động thủ. Nếu Mộ Dung Thu Thủy chết, đương nhiên là rất hay. Nhưng nếu hắn không chết, còn giết được tên cẩu Vương gia đó, vậy thì hắn lại được mọi người kính ngưỡng là đại anh hùng…Sự tình sợ rằng lại trở thành một vấn đề khác….

Ôn Lương Tương hơi rụt người lại không muốn nhìn tiếp nữa. Hình như từ lúc đầu phục đại tây nghĩa quân thì nàng đã mất đi cuộc sống đơn giản khoái ý ân cừu lúc trước, bắt đầu lo lắng ngổn ngang. Nhưng nói đi phải nói lại, nếu như Mộ Dung Thu Thủy thật sự trở thành anh hùng, chỉ sợ đám người Lý Định Quốc vẫn không cam tâm tình nguyện. Ha hả, có đôi khi nàng cũng không hoàn toàn hiểu những nam nhân thường ngày tự cho mình là anh hùng này, càng không vì điểm này mà phá đi sự oán hận sâu sắc đã rối như mớ bòng bong không rõ gút mắt.

Hai mươi năm trước, Trương Hiến Trung và Lý Tự Thành đều là “sấm tướng” dưới trướng Cao Nghênh Tường, sau đó hai người phân tách ra. Năm Sùng Trinh thứ mười bốn, Trương Hiến Trung liên tiếp bị thương bại trận, ở Tín Dương Lý Dĩ Bộ, Khúc Ngộ Chi, Trương Bất Tòng, Lý Dục Sát Chi, La Nhữ Tài chuyển sang đầu quân Lý Tự Thành. La Nhữ Tài còn tặng riêng năm trăm kỵ binh cho ông ta, danh tiếng nghĩa quân càng dâng cao. Năm Sùng Trinh thứ mười sáu, Trương Hiến Trung tại Vũ Xương xưng Đại Tây Vương, Lý Tự Thành tại Tương Dương thấy Trương Hiến Trung được xưng vương, lại chiếm được Vũ Xương thì cực kỳ bất mãn, hai bên thành hai thế.

Sau đó hai bên có nhiều lần giao phong, cụ thể tình hình thế nào Ôn Lương Tương cũng không rõ lắm, những việc trên là lúc nhỏ nàng nghe phụ thân kể lại. Lúc đó hai nghĩa quân là hai lực lượng hùng mạnh nhất, nhưng lại không hòa thuận lắm, không hài lòng nhau. Trong thời gian nhàn hạ bọn họ không ngừng cùng với quan binh triều Minh ác chiến, nắm bắt cơ hội để học hỏi lẫn nhau, đọ sức với nhau…Có thể tưởng tượng, trận hỗn loạn bên trong này không thể nghi ngờ gì nữa chính là cơ hội tuyệt vời để triều Thanh cho quân công chiếm Trung Nguyên.

Nàng suy tư, cười khổ.

Những năm gần đây, mọi người bỗng nhiên ý thức được rằng liên kết lại để chiến đấu là vô cùng quan trọng. Đại Tây nghĩa quân từ lúc Trương hiến Trung chết trận ở Tứ Xuyên, Lý Định Quốc mong muốn Lưu Văn Tú thống lĩnh, cùng với triều đại Nam minh liên hợp kháng Thanh. Nàng vì vậy bèn gánh trách nhiệm nặng nề, muốn âm thầm liên lạc các nghĩa sĩ giang hồ hảo hán từ Lưỡng Quảng đến Giang Nam, cùng nhau chống lại quân Thanh. Đám người của Mộ Dung Thu Thủy đúng là chỉ định muốn mượn hơi kết giao, trước tiên là xem bản lĩnh của hắn trong trận này, nếu bọn hắn bị tiêu diệt, chỉ tự trách bản thân mình học nghệ không thông, chứ không can hệ chút gì tới nàng.

Ôn Lương Tương vẻ mặt bất động, khóe miệng cười nhạt.

***

Vô Song ngẩng lên nhìn thoáng qua bầu trời, thản nhiên nói: “Xem tình hình này, chỉ sợ là đêm nay các ngươi không thể ra khỏi thành được.

Ôn Lương Tương lạnh lùng châm chọc: “Lẽ nào ngay cả ngươi cũng không có cách gì sao?”

Vô Song chỉ cười: “Bà chủ, ta chưa từng nói sẽ đảm bảo ngươi sẽ an toàn ra khỏi thành, nếu ngươi có thể ra ngoài được, giao dịch của chúng ta tiếp tục, nếu như ngươi không thể ra ngoài, ha hả…Vậy hai vạn lượng bạc đương nhiên là không thể trả lại, dù sao mọi người đều đã chết, có bạc hay không cũng vậy thôi, đúng không?”

Ôn Lương Tương biết rõ những lời hắn nói là thật nhưng vẫn tức giận, hai mắt phun hỏa trừng trừng nhìn hắn.

Vô Song không thèm nhìn nàng, đôi mắt sáng rực nhìn lên nơi nào đó ở đỉnh núi, trầm mặc chốc lát, bỗng nhiên nói: “Thực ra, muốn ra khỏi thành cũng không phải hoàn toàn là không có cách, để xem nàng có nhẫn tâm hay không…”

Hắn bỗng nhiên im bặt, vung ống tay áo thùng thình lên, một ánh sáng bạc từ trong ống tay áo vút ra như lưu tinh xẹt qua mặt nước trong veo trước mặt. Trong đám cỏ lau đối diện lập tức vang lên tiếng kêu ngắn ngủi, tiếp theo là tiếng một vật thể rơi xuống nước.

Ngay sau đó, từ trong bụi cây lau rậm rạp tung lên hơn mười người, cẩn trọng bao vây, đều là hắc y nhân, binh khí trong tay khác nhau. Người vượt lên đầu giống như một tên đại lãn mang dáng vẻ lười biếng, đôi mắt ti hí như hai khe hở, nhưng lại rất sắc bén, nhìn tròng trọc và Vô Song.

Vô Song khẽ chau hàng mi đẹp lại, trong ánh mắt lộ vẻ phiền chán, giống như một đứa trẻ kêu lên: “Ta nói các ngươi xem những tên này có phải là không có đầu óc hay không? Biết rõ không phải là đối thủ của ta mà vẫn liều mạng, hay là muốn tìm chết? Các ngươi không muốn sống nữa hả? Được được được! Ngày hôm nay ta sẽ thành toàn cho các ngươi.”

Giọng nói của hắn trong trẻo nhanh nhảu như hạt ngọc, nhưng tay thì xuất thủ còn nhanh hơn, câu kia “các ngươi” , từ “các” vừa dứt, những người xung quanh chưa kịp hành động thì trên mi tâm mỗi người đều cắm một mảnh vàng lá sáng chói.

Cổ lão tứ không dám tin tưởng trừng mắt, hai con mắt ti hí từ trước tới nay chưa từng mở to như thế, vẻ lười nhác chỉ là ngụy trang bề ngoài, thực chất bên trong luôn cẩn trọng đề phòng, lưu ý. Dù vậy, ông ta vẫn không thể nhìn rõ Vô Song xuất thủ như nào. Ông ta dường như muốn nói gì đó, nhưng, thời gian đã không cho ông ta cơ hội, máu tươi đỏ thẫm chảy từ mi tâm ông ta xuống, chảy qua mũi xuống môi cắt khuôn mặt ông ta ra làm hai.

Ôn Lương Tương và Duyệt ý cùng ngây người thật lâu không thốt lên lời.

Các nàng đều thật không ngờ, người thiếu niên ngay trước mắt này, người thiếu niên phong tư tú lệ khác thường này có một đôi mắt hồn nhiên ngây thơ này, lúc nói chuyện thường nhõng nhẽo giống như đứa trẻ bướng bỉnh này lại giết người không chớp mắt, trong lúc cười đã giết mười ba người, thân thủ nhanh đến mức không ai nhìn ra.

Vô Song không thèm nhìn các nàng, chỉ móc ra một chiếc khăn lụa trắng lau lau bàn tay, khổ não nói: “Thật đáng ghét, cứ luôn luôn làm cho nhân gia phải giết người.”

Lúc hắn nói thì đôi môi mọng đỏ, hàng lông mày rậm cau lại, dung nhân tuấn tú hồn nhiên ngây thơ gần như là yêu tà.

Ôn Lương Tương và Duyệt ý đưa mắt nhìn nhau, không hẹn mà cùng co rúm lại.

Ba người trầm mặc đi về phía trước tìm một lưu vực vượt qua sông Lạc Hà đi vòng phía Tây, chậm rãi tới gần tòa đền miếu hoang. Chiếc đền miếu hoang vốn đã đổ nát hoang phế, trải qua một trận đấu kịch liệt đã gần như sụp đổ không còn hình dạng, vài chiếc xà nhà mục nát bị lửa đốt cháy, trong ánh lửa có khoảng chừng ba trăm người đang làm thành vòng tròn tiến công, ở một khoảng cách xa để xem thì thế trận đó giống như một con độc xà cuộn tròn cuôi lấy đám dã cẩu vật lộn. Trong đền miếu tàn sát khốc liệt, máu thịt bắn khắp nơi, liên tục có người ngã xuống rồi ngã xuống, lại không ngừng có người xông lên.

Khúc Lan dẫn đầu đám người tuy rằng dũng mãnh thiện chiến nhất nhưng đến tột cùng cũng không chịu được sự luân phiên công kích này, có không ít người lộ vẻ mệt mỏi, cũng có một số giết người đỏ cả mắt, không sợ chết tả xung hữu dột, nhưng như thế nào cũng không xông ra ngoài được. Tư Mã Trác cùng với Phùng Nhị sốt ruột lập công, liều chết kẹp chặt đám người Mộ Dung Thu Thủy, Khúc Lan, Lưu Vệ Thần mấy người thủ lĩnh quần nhau không ngớt.

Hai bên đều là cao thủ, đánh nhau kịch liệt làm gió nổi dữ dội ở bốn phía, chân khí kích động tàn khốc, kiếm khí ngang dọc tùy ý, làm những binh lính công lực yếu kém không thể tới gần.

Mộ Dung Thu Thủy mặc dù bị thương ở lưng nhưng kiếm khí trong tay lại mạnh mẽ như sông Trường Gian và Hoàng Hà vỡ đê, chiêu kiêm lúc nhu lúc cương, lúc trái lúc phải, kiếm thế khi thì bỗng nhiên phiêu dật nhẹ nhàng, rồi đột nhiên ngưng trọng trầm ổn, ngay cả Tư mã Trác kinh nghiệm phong phú đa mưu túc trí cũng xao động, dần dần rối loạn.

Vô Song từ trong cỏ lau nhìn kiếm pháp của hắn, trong lòng cũng thầm tán thưởng. Hắn cùng với Mộ Dung Thu Thủy ly biệt ba năm, biết rõ võ công của Mộ Dung Thu Thủy tiến bộ rất xa, nhưng cũng không ngờ được hắn ta lại tiến bộ vượt bậc đến như vậy.

Lúc này chợt nghe tiếng Ôn Lương Tương hỏi Duyệt ý: “Trên người ngươi còn có ngọc lưu ly đạn Tô La không?”

Duyệt Ý nghe vậy liếc sang Vô Song, rồi xoay người sang chỗ khác tìm trước ngực, nói nhỏ: “Vừa rồi ở Hội Xuân Lâu dùng một viên rồi, giờ vẫn còn hai viên, ta xem có bị ngâm nước không?”

Vô Sông thân là các chủ Thiên hạ vô song các, làm sao không biết Tô La Ngọc lưu ly đạn chính là thuốc mê đệ nhất của Đường môn, có lực sát thương cực mạnh, nghiên cứu chế tạo hết sức khó khăn, vì vậy vô cùng quý giá. Hắn nghe Ôn Lương Tương hỏi như vậy, liền biết nàng có ý định tương trợ Mộ Dung Thu Thủy. Nhưng khi Duyệt ý lấy trong người ra hai viên trong suốt đưa cho nàng, nàng chỉ cầm trong lòng bàn tay vuốt ve mà chẳng làm động tác tiếp theo.

Lặng im chốc lát, trên đỉnh núi bên trái khu rừng bỗng nhiên xuất hiện sự rối loạn.

Bọn họ lập tức chăm chú nhìn, cây cối trên đỉnh núi mặc dù rất rậm rạp, thế núi tuy không cao lắm, đưa mắt nhìn qua chỉ thấy trong khu rừng có luồng gió động, phập phồng không dứt. Trong cây cối um tùm mơ hồ như có một bóng người bay lượn, lúc lên lúc xuống, kình khí kích động làm lá cây cuồn cuộn như sóng lớn.

Thị lực của Vô Song hơn người, lập tức nhận ra bóng người nhanh nhẹn đó là Đỗ Lương Dạ.

Lúc này, trong đền miếu mọi người cũng phát hiện trên núi có khác thường, Tư Mã Trác cùng Phùng Nhị giật mình, đưa mắt nhìn nhau không hiểu ra sao.

Khúc Lan và Lưu Vệ Thần không hẹn mà cùng lộ ra sự khẩn trương ngấm ngầm. Chỉ có Mộ Dung Thu Thủy là vẻ mặt vô cảm, giống như không chút đếm xỉa gì tới việc đó. Loại cảm xúc này từng khiến cho Khúc Lan vừa hận vừa thương, nhưng vào thời khắc này, ông ta đương nhiên không còn tâm mà để ý tới Mộ Dung Thu Thủy, trong lòng ông ta tràn ngập suy nghĩ là: Đám người Cao Kiện có đắc thủ không?

Trong bóng đêm mơ hồ tràn ngập hương thơm, lúc đầu thì vô cùng nhàn nhạt, sau đó dần dần nồng đậm dần, rồi có xu hướng càng thơm ngào ngạt, làn gió ngẫu nhiên thổi qua làm tiêu tan, sau đó lập tức lại tụ lại.

Đỗ Lương Dạ một chiêu bức ba người lui xuống, quay đầu lại nhìn vài tên thị vệ của Vương gia đang cùng một đám hắc y nhân đấu nhau.

Đám người đó đột nhiên như gió lặng lẽ lẻn lên núi đánh lén, vả lại mỗi người thân thủ rất khá, chắc là dốc toàn bộ lực lượng để đấu một trận trong đêm nay. Bản thân Khúc Lan ở ngoài sáng, mặt khác ngấm ngầm phái các cao thủ tới. Ha hả, quả nhiên là thủ đoạn! Chỉ tiếc kẻ địch của ông ta cũng không phải là người tầm thường, sợ là ông ta cũng không chiếm được lợi thế gì.

Nàng còn chưa phát giác bóng người cao gầy đang nhìn về phía đó, ánh trăng xuyên thấu qua những cành lá xanh rơi trên mặt hắn như bóng ma, không thấy rõ gương mặt và biểu hiện trên mặt hắn, nhưng trên người hắn lại phát sinh một loại khí tức rất bình tĩnh, hoàn toàn không chút gợn sóng sợ hãi trước cường địch, không mất đi sự uy nghiêm. Đỗ Lương Dạ nghĩ hình như nàng cũng bị sự bình tĩnh đó lây nhiễm. Dường như hắn sinh ra đã có lăng lực làm người khác bị nhiễm theo.

Nàng rất nhanh thì phát hiện, căn bản không cần nàng động thủ, tám gã thị vệ đã vây lấy một chọi mười, dũng mãnh vô địch, thật sự là không hổ là ngàn dặm mới tìm được một người tài. Gió càng lúc càng mạnh, dưới chân núi đột nhiên có tiếng nổ, trong bầu trời đêm tuôn ra như pháo hoa, sáng rực lóa mắt, nồng đậm khói trắng nhanh chóng tản ra.

Đỗ Lương Dạ kinh nghiệm giang hồ đương nhiên phát hiện ra đó là độc khí của Đường môn, nàng đẩy cành cây ra chăm chú nhìn, chợt thấy phía sau có cơn gió, vội vàng quay kiếm về chống đỡ. Kiềm của nàng vừa rồi ở tiểu lâu đã bị gãy, hiện giờ ở trong tay là thanh kiếm tùy thân do Vương gia ban tặng, sắc bén tuyệt luân. Một đường kiếm chạm vào lập tức chém gẫy binh khí của đối phương, theo sát nghiêng theo cánh tay hướng về cổ đối phương kề vào…

Nàng ngửi thấy một mùi máu tanh nồng đậm, mặt không đổi sắc, ngược lại còn có cảm giác hưng phấn trong đầu bắt đầu xuất hiện.

Lúc này, trong làn sương mù đậm đặc dưới chân núi đột nhiên xuất hiện một bóng người, mạnh mẽ, cao to, nhanh chóng, giống như đại bàng tung cánh bay lên, hai chân liên tiếp điểm nhẹ lên những lá cây, thoạt nhìn giống như hải âu duyên dáng mêm mại đạp sóng trên biển, bay qua mặt nước, rồi nhắm đỉnh núi bay vút lên.

Tốc độ nhanh như chớp này làm kẻ khác líu lưỡi!

Bóng người đó làm Đỗ Lương Dạ bất ngờ, nàng khiếp sợ và cũng không khỏi cảm phục sâu sắc, không ngờ Mộ Dung Thu Thủy lại có khinh công cao đến như vậy. Hắn ta chưa tới, kiếm khí sắc bén đã mãnh liệt làm người khác lạnh ngắt. Mọi người cần cứu giúp chưa kịp phản ứng gì đã thấy một bóng người màu đỏ mạnh mẽ phi thẳng vào trong đám người, nhanh như tia chớp.

Lúc này Đỗ Lương Dạ quát lên một tiếng: “Bảo hộ Vương gia.”

Lời vừa dứt, trong bóng đêm bỗng có một mùi hương quen thuộc.

Trong khu rừng biến hóa kỳ lạ, bên cạnh Vương gia bỗng dưng xông ra bảy người hình dáng như quỷ mị. Hai người đằng trước cùng đồng loạt đưa cánh tay ra ngăn cản thế tiến công của Mộ Dung Thu Thủy, mỗi người cầm một mũi kiếm, một người kiềm chế kiếm phong, năm người còn lại vây quanh Vương gia nhanh chóng thối lui mấy trượng. Bảy người đó giống như u linh trong đêm, thân pháp linh động nhanh nhẹn không thể tưởng tượng nổi. Theo sự xuất hiện của bọn họ, mùi hương trong không khí càng lúc càng thơm ngào ngạt nồng đậm hơn, dường như mùi hương kết thành mối đồng tâm hiệp lực vững vàng, dày đặc không hề phân tản ra.

Một kiếm đó của Mộ Dung Thu Thủy đã dùng toàn lực, hai người đó làm sao cản được?

Nhưng thấy kiếm phong lướt qua, máu tươi phun trào, mười đầu ngón tay bọn họ khó giữ được nhưng hai người đó cũng rất cường ngạo, ngay cả một tiếng cũng không kêu, hoàn toàn không lo cho bản thân, cứ thuận theo di chuyển của chiêu kiếm, tốc độ cực nhanh hai tay nắm song song đánh tới trước mặt Mộ Dung Thu Thủy.

Kiếm thế Mộ Dung Thu Thủy vô cùng mềm mại linh hoạt, mũi kiếm nhẹ nhàng rung lên phân ra làm hai luồng kiếm đâm vào yết hầu của hai tên đó làm hai người phải lùi ra sau, Mộ Dung Thu Thủy lập tức thừa cơ truy kích, đúng lúc phía sau xuất hiện thêm hai bóng người, năm người kia nhất thời cùng quấn lấy nhau, càng đấu càng khó phân thắng bại, không kịp nhìn.

Thời gian dường như rất ngắn, lại dường như rất dài.

Bốn bề vù vù gió thổi, tiếng binh khí va vào nhau, tiếng kêu rên thảm thiết, đội của Cao Kiện vẫn còn đang dây dưa với tám gã thị vệ, hai bên đều có thương vong. Mộ Dung Thu Thủy lại như hoàn toàn chìm đắm vào trong âm thanh của đao kiếm, chiếc khăn che mặt trên mặt hắn đã bị rách, lộ ra khuôn mặt tuấn lãng trầm tĩnh, trên mặt tràn ngập tình cảm mãnh liệt cùng với sự say mê, hắn dường như không phải đang chém giết, mà là đang thực hiện vũ đạo điên cuồng đầy thích thú, đối thủ của hắn chính là bạn nhảy của hắn.

Đỗ Lương Dạ thấy bảy chiến tướng mà Vương gia ngấm ngầm chuẩn bị đã xuất hiện, trong lòng lần thứ hai âm thầm thấy may mắn, may mắn vì mình đã không làm chuyện điên rồ.

Lúc này, dưới chân núi sương mù đặc quánh đầy khắp, tiếng kêu thảm liên tục, giống như có người bị thít chặt yết hầu mà kêu, nghe khiến người ta phát run. Đỗ Lương Dạ bình tĩnh quan sát phia dưới, trông thấy sương trắng bao quanh đậm đặc, giống như làn mây trong thâm sơn cùng cốc. Trong đám mây mơ hồ có ba bóng đen hướng tới đỉnh núi, khí thế cực nhanh. Nàng hơi nheo mắt lại, ngón tay cái vô thức đặt lên chuôi kiếm.

Bỗng nhiên, một ánh sáng kỳ dị bảy màu cắt bầu trời đêm.

Hầu như là cùng lúc, Đỗ Lương Dạ đạp nhẹ chân vào thân cây mượn lực bay người lên đuổi theo hướng có ánh sáng kỳ dị đó, đang ở giữa không trung, bàn tay cầm kiếm chém ra một chiêu nhắm ngay vào ánh sáng kỳ dị đó, chỉ nghe “choang” một tiếng, tốc độ của ánh sáng kỳ dị đó vốn đang dừng lại bỗng nhiên gia tăng tốc độ, cực nhanh nhắm vào phía sau núi rơi xuống, cho đến giữa sườn núi bỗng nhiên có tiếng “thình thịch” vỡ tung tóe, tung ra một đóa hoa màu trắng vô cùng tươi đẹp.

“Công phu giỏi!”

Phía sau có người hừ lạnh một tiếng, một cường lực mềm dẻo và mạnh mẽ đánh thẳng vào lưng nàng. Đỗ Lương Dạ đang ở giữa không trung cảm giác da đầu bỗng nhiên căng cứng, mái tóc trên đầu bị kích động bay lên rối loạn. Nàng vì dùng toàn lực để đẩy viên mai đạn lạc kia ra nên vốn là không thể tránh được một kích đó. Nhưng từ nhỏ nàng đã từng chịu những huấn luyện tàn khốc, từ trước đến nay cũng từng trải qua nhiều thập tử nhất sinh, vì vậy quả đoán quay đầu đi, xoay tay cầm bảo kiếm lại đâm qua vai trái mình, kiếm thế như cầu vồng xuyên nghiêng qua đâm lên, không chút do dự!

Ôn Lương Tương tuyệt đối không ngờ Đỗ Lương Dạ lại ngoan tuyệt như vậy, song chưởng đó là hợp hết toàn lực, thế như chẻ tre không thể thu hồi, chỉ có thể mắt mở trừng trừng nhìn kiếm phong sáng như tuyết không chút sai lệch đâm thủng bàn tay mình, lập tức toàn thân đau đớn kêu lên một tiếng.

Hai người đồng thời hạ xuống đất.

Đỗ Lương Dạ ôm vai mình lùi mấy bước rồi mới dừng lại, khuôn mặt tái nhợt như tuyết, trên trán mồ hôi toát như mưa, chỉ có đôi mắt mở to đen kịt như sao sáng rực như muốn đốt cháy vào bóng đêm vô tận.

Gió bên ngoài khu rừng thổi càng lớn, rõ ràng hiệu quả của Ngọc lưu ly đạn Tô La thua xa ở Hội Xuân lâu, dưới chân núi khói đặc rất nhanh bị gió đêm thổi tản đi, Khúc Lan và Lưu Vệ Thần thừa dịp hỗn loạn liền lên núi, Tư Mã Trác và Phùng Nhị đem người đuổi theo sát, đem đối phương vây ở rừng rậm tiếp tục chiến đấu. Nhóm người của Sấm Thần Cao Kiện dần dần kém thế, Mộ Dung Thu Thủy thì một địch bốn, từ lâu đã rất chật vật, có dấu vết sắp thua, còn đối phương có ba người vẫn chưa xuất thủ.

Ôn Lương Tương cắn chặt răng, chuyển ánh mắt sang bóng người cao gầy ở đỉnh núi bên trái. Ông ta lẳng lặng đứng thẳng một bên, xung quanh hỗn chiến, giết chóc, máu tanh, tử vong hoàn toàn không chút ảnh hưởng đến ông ta. Hình dáng ông ta đứng thẳng hứng gió tựa như một tấm bia to không thể vượt qua, làm kẻ địch của ông ta cũng trở nên kinh sợ.

Ôn Lương Tương nhìn ông ta, trong ngực bỗng nhiên nảy sinh một sự tuyệt vọng, bàn tay máu chảy đầm đìa giống như có một ngọn lửa đang đốt cháy, đau đến khắc cốt ghi xương mà tuyệt vọng, vô cung tuyệt vọng, nhưng chẳng thể làm gì, lại có chút cảm xúc bi tráng.

Nàng vô thức buộc chặt đoản kiếm vào tay áo.

Ánh mắt Đỗ Lương Dạ vẫn chăm chú tập trung vào Mộ Dung Thu Thủy, mỗi khi trên người hắn có thêm một vết thương là lòng nàng lại quặn thắt, mỗi một giọt máu trên người hắn chảy ra, lòng nàng lại đau đớn như bị chia cắt, chỉ cảm thấy trong ngực tưng tức không thể nào phát tiết ra. Vết thương trên vai nàng không quan tâm, mặc cho máu chảy đầm đìa, dường như chỉ có sự đau đớn ở thân thể mới khiến sự bức bối và ấm tức trong lòng nàng chút dễ chịu.

Mắt thấy kiếm quang xẹt qua mi trái của Mộ Dung Thu Thủy, máu tươi cuồn cuộn chảy xuống mặt hắn, càng tăng thêm dung nhan tuấn tú đẹp đẽ, giống như đóa hoa hải đường thanh lệ tuyệt luân. Bỗng nhiên Đỗ Lương Dạ nghĩ tình huống này sao vô cùng quen thuộc, giống như là trong giấc mộng ở kiếp trước kiếp trước, nàng đã vô số lần gặp qua cảnh này rồi.

Toàn bộ thể xác và tinh thần của nàng đều bị một cảm giác quái dị này siết chặt lấy.

Trong hỗn loạn có tiếng người quát lên, gió táp thổi bên tai, Ôn Lương Tương cầm kiếm phi lên đỉnh núi, nhanh cung tên Phía trước Mộ Dung Thu Thủy có ba tên, tên thứ nhất bất động như núi, hai tên khác cùng kẹp hai bên, ba người gần như tương hỗ lần nhau. Ôn Lương Tương không hổ là tham gia hí kịch nhiều năm, cả người linh hoạt mềm dẻo khác thường, cổ tay linh hoạt bản lĩnh cao cường, thanh đoản kiếm trong tay áo được múa ra tựa như ảo mộng, càng thấy được rằng đấu pháp của nàng hoàn toàn là đồng quy vu tận, Nhị Sát trong tạm thời quay sang đấu với nàng. Mộ Dung Thu Thủy vẫn liên tiếp lui bước, trên cánh tay bị trúng một kiếm

Trong lòng Đỗ Lương Dạ biết tuyệt đối không thể do dự nữa, lập tức giơ bảo kiếm trong tay lên, cong lại búng một cái, lưỡi kiếm sắc bén phát ra một tiếng ngân vang vọng bầu trời đêm. Ngay sau đó, một ánh sáng xé rách trời cao, nhanh như chớp đâm thẳng vào sau lưng Ôn Lương Tương, nhanh không gì sánh được, sắc bén tuyệt luân.

Nhị Sát sớm đã lĩnh giáo qua kiếm pháp của Đỗ Lương Dạ, tai nghe âm thanh lạnh lẽo phát ra từ kiếm của nàng liền lập tức né tránh sang hai bên, lường trước Ôn Lương Tương thế nào cũng không thể tránh được chiêu kiếm đó. Thế nhưng, kiếm pháp của Đỗ Lương Dạ đang sắp kề tới cổ Ôn Lương Tương, bỗng nhiên giữa đường đột nhiên thay đổi, hướng về bên trái xẹt qua…

Nhị Sát giật mình kêu lên: “Vương gia.”

Kiếm pháp Đỗ lương Dạ cực nhanh, trực tiếp, chiêu thức quyết tuyệt, tàn nhẫn, điều này yêu cầu tay phải nàng cũng phải đủ nhanh. Xác thực nàng cực nhanh, một kiếm đâm thủng qua một tên, song song thì trở tay bóp chặt yết hầu của hắn. Hai động tác liên tiếp hoàng thành trong nháy mắt, có thì chỉ trong chớp mắt. Bởi vì rất nhiều người đều trừng mắt mở to, chớp mắt còn không dám chớp.

Ngay cả Mộ Dung Thu Thủy hay bảy tên thị vệ, toàn bộ bị tình huống biến ảo bất thình lình này làm cho ngây người.

Bốn bề bỗng nhiên rơi vào một sự yên tĩnh nặng nề.

Trong sự yên tĩnh quỷ dị này, hai người họ bốn mắt nhìn nhau!

Khuôn mặt Mộ Dung Thu Thủy bình tĩnh, nhưng đôi mắt lại sáng rực chăm chú nhìn vào mắt Đỗ Lương Dạ.

Đỗ Lương Dạ khẽ cong khóe miệng, lộ ra dáng vẻ tươi cười tú tuyệt, nhưng không biết vì sao, trong dáng vẻ tươi cười của nàng lại chứa đầy sự bi ai, tựa như một đóa hoa hé nở, thỏa thích nở bung ra, chờ đợi sự héo rũ, sau đó là hư thối!

“Xin ngài hãy buông tha huynh ấy.”

Ông ta không trả lời. Ánh mắt mọi người đều tập trung trên người ông ta.

Đây là một cục diện Thanh binh tất thắng, dưới chân núi cả một tòa sơn một lần nữa bị bao vây, còn đội ngũ phản Thanh phục Minh thì tổn thất nặng nề, vô cùng thê thảm…Ôn Lương Tương âm thầm nhìn lướt qua một lượt, đánh giá thương vong, trong lòng buồn bã khẽ thở dài.

Trầm mặc một lúc lâu, ông ta cuối cùng mở miệng.

“Dạ nhi, ta mong muốn sau này ngươi không vì quyết định ngày hôm nay mà hối hận.’

Giọng nói của ông ta vô cùng bình tĩnh, hơn nữa rất lãnh tĩnh.

Đỗ Lương Dạ mỉm cười thảm đạm, nói: “Xin ngài hãy thả cho chúng ta xuống núi.”

Ánh mắt ông ta lộ ra sự thương hại vô biên, trầm giọng chậm rãi nói: “yêu, như là cầm một bó đuốc, ngược gió mà đi, sẽ có lúc cháy cả tay mình.”

Đỗ Lương Dạ bỗng nhiên lệ rơi đầy mắt, kêu to: “Mau bảo người của ngươi con bà nó cút ngay cho ta…”

Ông ta trầm mặc phất phất tay.

Sau nửa tuần hương, hỏa long dưới chân núi tách ra một chỗ trống. Một chiếc xe ngựa xa hoa đứng ở trên gò núi gồ ghề, phu xe trong trang phục cẩm tú, tóc đen dài mượt, trên mặt mang một chiếc mặt nạ hồ điệp. Không thể nghi ngờ, hắn là phu xe có khí chất nhất mà Đỗ Lương Dạ từng thấy.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.