Mời Tân Lang Lên Kiệu Hoa

Chương 21: Đồng tước




Lý Vân Sưởng trước mắt khiến cho Tuệ An ngây ra, trong con ngươi quen thuộc đang phản chiếu lại bóng hình nho nhỏ của chính mình, giữa mâu quang như nước tản ra một loại cảm giác như thân thiết lại chiều chuộng, ánh mắt như vậy làm cho người ta như đang thấy mình chìm vào sủng ái vô hạn, khiến người ta cảm thấy chỉ cần được hắn nhìn, sẽ được bảo bọc mình trong đó, trở thành người hạnh phúc nhất, ánh mắt đó cũng là thứ mà kiếp trước nàng hằng ước ao, nhưng mãi mãi cũng chưa từng có được…

“Này, cô là kẻ ngốc sao? Sao nói với cô mà cô cứ như người gỗ chẳng có phản ứng gì thế, bây giờ lại nhìn chằm chằm Thất hoàng huynh ngẩn người, thật là buồn cười.” Một giọng nữ dễ nghe vang lên bên tai, Tuệ An mới vội vàng tỉnh táo, mặt mũi đỏ bừng, lúc này mới nhìn rõ người đang nói chuyện với mình.

Cô gái này nhìn qua ước chừng mười lăm tuổi, áo vàng thêu một cành mẫu đơn đỏ viền bạc đua nhau khoe sắc, thắt lưng bằng gấm xanh lam. Dưới váy dài lộ ra một đôi giày cẩm tú nhỏ nhắn, trên mũi giày găm một hạt trân châu to bằng ngón tay cái, nàng tóc mây búi cao*, phía trên là trâm vàng khảm bảo thạch, bảo thạch có hồng có lam, ánh mặt trời chiếu vào, vừa nhìn đã biết chính là cống phẩm thượng đẳng do Nam Cương tiến cống.

Nàng không chỉ toàn thân cao quý, diện mạo lại càng mắt phượng mày ngài, dịu dàng tuyệt mỹ, nhìn kỹ có sáu bảy phần giống với Lý Vân Sưởng, chỉ khác ở khí chất nông nổi hoạt bát, nhưng cũng khiến cho dung nhan mềm mại kia hiện ra vài phần diễm lệ quyến rũ.

Tuệ An thấy nàng vẫn cười cười nhìn mình, không nhìn ra tốt xấu thế nào, cũng không để tâm lời nàng vừa nói, nửa đùa nửa thật trả lời: “Tần vương điện hạ tuấn mỹ hơn người, cho nên tiểu nữ mới nhất thời ngẩn ngơ, nay nhìn dung mạo của tiểu thư còn hơn một bậc, tiểu nữ thành tượng gỗ thì có gì sai.”

Thiếu nữ nghe vậy thì sững sờ, sau lại cười lên khanh khách, Tuệ An càng cảm thấy xung quanh rực sáng, lệ sắc bắn ra bốn phía. Đã thấy nàng vừa cười vừa vỗ tay, nói với Lý Vân Sưởng: “Thất hoàng huynh, đây chính là vị Thẩm tiểu thư của phủ Phượng Dương hầu mà Cảnh Tâm muội muội vẫn hay nói sao? Đúng là khéo miệng.”

“Đoan Ninh, không được vô lễ.” Lý Vân Sưởng vờ lườm nàng một cái, nhìn về phía Tuệ An, nói: “Đây là hoàng muội Đoan Ninh, xưa nay tính tình bướng bỉnh, xin Thẩm tiểu thư đừng trách.”

Vừa rồi Tuệ An cũng nghe thiếu nữ gọi Lý Vân Sưởng là Thất hoàng huynh, đoán chừng là công chúa, mới lễ phép với nàng hơn, giờ biết vị này chính là Đoan Ninh công chúa danh tiếng lừng lẫy, thật ra cũng không quá ngạc nhiên.

Kiếp trước nàng vốn không được Lý Vân Sưởng yêu thích, hai năm gả vào Vương phủ ngoại trừ ngày đại hôn có cùng Lý Vân Sưởng tiến cung thỉnh an Hiền Khang đế và Đông phi nương nương một lần, về sau cũng chỉ tiến cung một lần, là do nghe được Hiền Khang đế muốn nạp trắc phi cho Lý Vân Sưởng, nàng tiến cung đòi sống đòi chết.

Trừ hai lần này ra, hai năm Tuệ An làm Vương phi, cũng chưa từng vào cung. Lúc này vì Thái hậu đã tại thế, quý nhân trong cung không làm thân với nàng nữa. Mà hai năm này Đại Huy cũng không có chuyện vui lớn nào, mà Đông phi nương nương cũng biết Tuệ An không được yêu thích, trước giờ bà vốn ưa yên tĩnh, càng không cần Tuệ An tiến cung trò chuyện.

Cho nên Tuệ An vẫn không có duyên nhìn thấy Đoan Ninh công chúa, chỉ nghe nói qua tên của nàng mà thôi, còn biết trong số các anh chị em nàng có vẻ ngoài giống với Hiền Khang đế nhất, nên cực kỳ được Hiền Khang đế sủng ái.

Hôm nay nhìn thấy, Đoan Ninh cá tính sống động, so với lời đồn đúng là không sai, chỉ tiếc Quan Nguyên Hạc không phải là người biết thương hương tiếc ngọc, đáng thương cho khối tình si của nàng công chúa xinh đẹp này.

“Tham kiến Tần vương điện hạ, công chúa điện hạ.” Tuệ An trong lòng thổn thức một hồi, lúc này mới nhún người với Lý Vân Sưởng cùng Đoan Ninh công chúa Lý Minh Hoa, lần lượt hành lễ.

Vốn là Lý Vân Sưởng hôm nay đang ở trong cung trò chuyện cùng Đông phi, sau bị Đoan Ninh lôi kéo, mới lại cùng Tĩnh Mẫn Thái công chúa đến Quan phủ thăm lão thái quân.

Ai ngờ mới ra khỏi hoàng cung đã có gã sai vặt Quan phủ phi ngựa đến báo, nói là Lưu Vân đang sinh nở, Lăng Phong thì đả thương thú y đỡ đẻ, Quan phủ đã sai người đi mời Ngưu Giám chính đến chữa trị cho Lưu Vân, không biết có thể cứu sống được nó không.

Lưu Vân là con ngựa mà hắn cực kỳ yêu quý, là ngự mã do Tây Phiên tiến cống năm Hồng Đức thứ bảy. Bởi vì Hiền Khang đế chỉ thích ngựa có nhiều màu pha trộn, cho nên ban Lưu Vân cho mình, hắn vẫn yêu thích không thôi.

Năm ngoái hắn đảm nhiệm chức vụ Đại tổng quản của đại quân Đông chinh, từng đến biên giới Đông Khương hỗ trợ lương thảo cho đại quân, chẳng ngờ Lưu Vân lại quấn quýt lấy Lăng Phong. Lăng Phong là vua của loài ngựa trên thảo nguyên, huyết thống cao quý đến nhường nào, nếu Lưu Vân có thể cùng Lăng Phong sinh hạ ngựa con, nhất định cực kỳ phi phàm, từ khi Lưu Vân thụ thai hắn luôn chăm lo đủ điều, chỉ chờ đến khi nó sinh nở.

Sau khi Quan Nguyên Hạc hồi kinh có mang Lăng Phong đến phủ Tần vương thăm Lưu Vân một lần, nào biết Lưu Vân từ đó lại nổi nóng không yên, không có Lăng Phong bên cạnh là giở tính khó chịu, khiến cho phủ Tần vương mấy lần gà bay chó sủa, sợ nó tổn thương đến ngựa con trong bụng, không còn đường nào khác hắn mới phải cho người đưa Lưu Vân đến Quan phủ.

Giờ nghe nói Lưu Vân khó sinh, hắn há có thể không vội? Gấp gáp cùng Đoan Ninh cưỡi ngựa chạy vội tới.

Đến Quan phủ thì biết Lưu Vân đã may mắn không sao, vừa vào sân đã thấy Thẩm Tuệ An đang trầm tư ngắm nghía ngựa con.

Nàng một thân trang phục rực rỡ thanh tú đứng trong chuồng ngựa có vẻ vô cùng chói mắt. Ánh mặt trời chiếu xuống, ánh lên khuôn mặt tươi sáng của nàng. Cũng không biết đang suy nghĩ chuyện gì, đặc biệt chuyên chú, toát ra khí chất trầm tĩnh thanh tao.

Kỳ thật hai ngày nay ngẫu nhiên hắn cũng sẽ nhớ tới Tuệ An, vì khung cảnh hôm đó thật sự đã chấn động đến hắn, hắn vĩnh viễn cũng không quên được nét kinh hoàng cùng đau đớn của Tuệ An hôm đó, cảm giác như nàng đã coi hắn như sinh mệnh của mình làm đáy lòng lạnh giá của hắn nổi lên một ngọn lửa nhỏ.

Sinh trong hoàng tộc vốn tình người nhạt nhẽo, ngay cả mẫu phi của hắn cũng chưa bao giờ quan tâm tới hắn như vậy, mặc dù Lý Vân Sưởng không biết tại sao Tuệ An lại để tâm đến mình, nhưng càng vì sự không hiểu đó, mà khiến hắn sinh lòng chú ý trước nay chưa từng có với Tuệ An.

Mấy lần hai người gặp nhau, mỗi lần Tuệ An lại cho hắn một cảm giác khác nhau. Lần đầu tiên gặp, nàng mạnh mẽ như lửa, làm hắn bất ngờ; lần thứ hai ở phủ Uy Viễn hầu, nàng khóc hệt như một chú cún bị bỏ rơi, đúng bộ dáng một cô bé con; lần thứ ba là nàng bị Đông Khương tử sĩ hành hung, mềm mài yếu ớt cuộn người trong chiếc áo khoác, sắc mặt tái nhợt, khiến người ta đau đớn; lần này nàng lại trầm tĩnh thanh tao, còn giúp hắn cứu sống Lưu Vân.

Mà trong kinh đồn đại, luôn nói nàng điêu ngoa tùy hứng, lỗ mãng vô cùng. Rốt cuộc đâu mới là con người thật của nàng, Lý Vân Sưởng có chút tò mò.

Hơn nữa vừa rồi hắn đứng ngay trước mặt nàng, khen nàng mấy câu, vậy mà tiểu cô nương này vẫn thả hồn theo suy nghĩ không nhận ra, với người như Lý Vân Sưởng chính là cực kỳ đả kích.

Với dụng mạo cùng thân phận của hắn, lại thêm khí chất, tài hoa, đã bao giờ bị xem nhẹ như vậy, đặc biệt đối phương còn là một tiểu cô nương, có khác nào đang khiêu chiến chính diện với mị lực của hắn, suy cho cùng lúc này Lý Vân Sưởng cũng là một thiếu niên trẻ tuổi cao ngạo, bị người khác coi thường, sao có thể không nổi lên lòng hiếu chiến cho được?

Thế nên khi hắn thấy Tuệ An yêu kiều hành lễ, khẽ nở một nụ cười ôn nhuận như ngọc, liền tiến lên một bước đưa tay muốn đỡ Tuệ An dậy. Lại không ngờ Tuệ An giật mình một cái, như tránh rắn rết mà lùi về sau một bước, sau đó mới ảo não cúi thấp đầu.

Lần này Lý Vân Sưởng càng cảm thấy không đúng, tinh tế đánh giá Tuệ An, đôi mắt loe lóe, dường như ngộ ra điều gì nhếch môi một cái, ánh mắt cũng theo đà dời sang phía Đoan Ninh đang cố gắng đến gần Lăng Phong nói:

“Lăng Phong tính khí nóng nảy, Bát hoàng muội coi chừng bị nó đả thương, mau lại đây, vừa rồi không phải còn nói sẽ nghe lời hoàng huynh sao.”

Đoan Ninh đang cố đưa tay thử vuốt ve cổ Lăng Phong nghe vậy, nghiêng đầu bĩu môi một cái, thầm nói: “Lúc nào cũng coi người ta là tiểu cô nương, người ta đã đến tuổi cập kê rồi!”

Nhưng nàng ngoại trừ Thái hậu với Hiền Khang đế, sợ nhất chính là Thất hoàng huynh này, Lý Vân Sưởng càng tươi cười ôn hòa thì nàng lại càng sợ hãi, chẳng qua ở bên cạnh Lý Vân Sưởng nàng cũng không cảm thấy tệ.

Nàng mặc dù trong miệng mắng thầm, nhưng vẫn theo lời cách xa Lăng Phong một chút, đảo mắt lại thấy ngựa con nằm bên cạnh Lưu Vân, vội vàng chạy tới, ngồi xuống nhìn chằm chằm tiểu hắc mã, thấy tiểu hắc mã tướng mạo xinh đẹp, hai mắt linh động khẽ nháy, cũng nổi lên tâm tư muốn chiếm làm của riêng.

Bất chợt xoay người ra hiệu cho Lý Vân Sưởng, nói: “Thất hoàng huynh, huynh xem ngựa con rất có duyên với muội này, còn liếm tay muội nữa, huynh tặng nó cho muội có được không?”

Muốn giành ngựa của nàng!

Tuệ An sớm đã xem ngựa con là vật sở hữu của mình, đang nghĩ phải làm sao mới mang về Hầu phủ được, bây giờ vừa nghe còn nghĩ được gì nữa, hai mắt khẩn trương dính chặt vào ngựa con, làm như sợ nó đột nhiên biến mất khỏi tầm mắt của mình, ngoài miệng lại nói: “Ơ, Lăng Phong, Lưu Vân đều là của Quan tướng quân cả, công chúa cần phải nói với Quan tướng quân mới đúng chứ.”

Theo Tuệ An nghĩ, tâm tư của Đoan Ninh đối với Quan Nguyên Hạc nếu ngay cả Văn Tư Tồn cũng biết, mà Quan Nguyên Hạc cũng không phải kẻ ngốc, tự liên là biết rõ. Theo kiếp trước nàng biết, Quan Nguyên Hạc lại vô tình với Đoan Ninh công chúa, vậy thì nếu Đoan Ninh mở miệng muốn lấy ngựa con từ Quan Nguyên Hạc, khẳng định là Quan Nguyên Hạc cũng không đồng ý, nếu không chẳng phải sẽ khiến Đoan Ninh sinh lòng hiểu nhầm?

Huống chi Quan Nguyên Hạc vừa nhìn đã biết là người khó nói chuyện, lúc nào cũng bày ra bộ dạng không coi ai ra gì, với thân phận của y thì càng không cần kiêng kỵ xuất thân cao quý của Đoan Ninh công chúa, dĩ nhiên cũng không sợ cự tuyệt công chúa sẽ đưa tới tai họa bất ngờ.

Lý Vân Sưởng nghe vậy lại cười khổ, thầm nghĩ xem ra vừa rồi Tuệ An thật sự không thèm để ý đến mình chút nào.

Đông Nhi, Thu Nhi thì lúng túng cúi đầu, ban nãy Tần vương điện hạ còn nói lời cảm tạ với cô nương, cám ơn nàng đã cứu ngựa yêu của người ta, sao mà một câu cô nương cũng không nghe thấy cơ chứ…Chuyện này đối với một hoàng tử mà nói, quả thật là có phần thất lễ, nhưng nhìn vị Tần vương này có vẻ là một người tốt, chắc sẽ không nổi nóng mà trách tội cô nương đâu.

“Gì chứ, Lưu Vân là ngựa của Thất hoàng huynh cơ mà. Thất hoàng huynh, Minh Hoa thích con ngựa nhỏ này lắm, huynh đưa nó cho muội đi.” Trong lòng Đoan Ninh cũng thầm nghĩ, nếu như lấy được ngựa con này về tay, chẳng phải là có thể tiến gần Quan Nguyên Hạc một bước sao?

Nàng từ nhỏ đã thích Quan Nguyên Hạc, bất đắc dĩ Quan Nguyên Hạc trời sinh trầm mặc ít nói, lại lạnh lùng bạc tình. Nàng tuy là thiên chi kiều nữ, vậy mà Quan Nguyên Hạc cũng không thèm liếc mắt một cái, lòng nàng cũng biết muốn đòi ngựa từ chỗ Quan Nguyên Hạc là việc không thể nào, nên muốn thừa dịp Quan Nguyên Hạc không có ở đây, phải nói vài lời ngon ngọt với Lý Vân Sưởng để lấy được ngựa này cái đã. Trong lòng thầm nghĩ, chỉ cần nhóc con này thuộc về mình, nó lại là đời sau của Lăng Phong, sau này nếu nàng xin Văn Hiên ca ca dạy bảo cho thuật thuần ngựa, hoặc là ngựa con sinh bệnh, tất nhiên Văn Hiên ca ca sẽ không thể không thèm nhìn đến như trước nữa.

Đến tận lúc này Tuệ An mới biết Lưu Vân là ngựa của Lý Vân Sưởng, nhất thời đầu óc choáng váng cả lên, kiếp trước nàng chưa bao giờ thấy qua Lưu Vân, cũng càng không biết Lý Vân Sưởng từng có một con ngựa tên là Lưu Vân.

Hết rồi, hết thật rồi, ngựa của nàng…

Tuệ An đang thầm gào thét ngựa con không có duyên với mình, bên kia Đoan Ninh đã tinh mắt trông thấy Quan Nguyên Hạc đã bước qua cửa vòm đi tới bên này.

Nàng đã hai năm chưa từng gặp lại Quan Nguyên Hạc, lần gần đây nhất là Quan Nguyên Hạc hồi kinh báo cáo công việc, nàng ở phía xa nhìn qua một cái. Mấy ngày trước đây đại quân về triều, nàng sớm đã không chờ đợi được muốn xuất cung xem phụ hoàng khao quân, đáng tiếc năn nỉ phụ hoàng hồi lâu, phụ hoàng chỉ nói khao quân là đại sự của triều đình, há lại coi là trò đùa, thế nào cũng không đồng ý cho nàng đi theo.

Nàng còn bất chấp giả dạng làm cung nữ, nghĩ trà trộn vào đoàn người để xuất cung, lại bị mẫu hậu phát hiện áp tải về cung Triêu Dương, hôm nay nếu không phải là theo Thái cô cô đến Quan phủ vấn an lão thái quân, chỉ e còn chẳng biết đến bao giờ mới có thể nhìn thấy Văn Hiên ca ca.

Hai năm không gặp, y càng trở nên anh tuấn rồi sao, giơ tay nhấc chân cũng lộ ra mị lực của một nam tử trưởng thành lẫn khí thế băng giá thấu xương.

Đoan Ninh vừa nhìn mắt đã sáng rỡ cả lên, rốt cuộc không thể rời mắt.

Tuệ An cũng nhận ra nàng không được bình thường, theo ánh mắt nàng nhìn sang, chỉ thấy lúc này Quan Nguyên Hạc đã lần nữa thay một bộ trường bào xanh lam vừa vặn, trên cổ cùng ống tay áo dùng tơ màu xanh ngọc thêu lên hoa văn tường vân, ống quần màu xám đặt gọn ghẽ trong giày, đàng hoàng bước đến.

Một đầu tóc đen của y vẫn búi gọn trên đầu như cũ, không dùng một cây trâm ngọc cố định như lúc trước, lần này là một phát quan không biết bằng vàng hay ngọc khảm ba viên trân châu đen bao quanh, gài vào một chiếc trâm bạch ngọc hoa sen, càng thêm thanh quý bất phàm, khó trách Đoan Ninh công chúa lại nhìn không chớp mắt.

Chẳng qua Tuệ An thật sự không có ấn tượng tốt đẹp với Quan Nguyên Hạc cho lắm, thấy y lạnh mặt đi đến, chỉ cảm thấy người này chẳng khác nào một bức tượng đá xanh lam biết di động, tỷ lệ tuyệt vời, tiếc mỗi toàn thân đâu đâu cũng tản ra ẩn ý người sống chớ lại gần, giống như tượng phật được thờ cúng trong miếu, mà đã là tượng phật thì sao có thể sinh lòng khinh nhờn cho được.

Nhưng hiển nhiên Quan Nguyên Hạc như vậy lại cực kỳ hợp với khẩu vị của Đoan Ninh công chúa, Đoan Ninh nhảy lên ba bước đã đến trước mặt Quan Nguyên Hạc, Tuệ An khẽ nhếch môi, nhớ kiếp trước mình không phải cũng giống nàng đấy thôi, nhìn thấy Lý Vân Sưởng cũng là như thế, nghĩ vậy Tuệ An lại liếc sang Lý Vân Sưởng bên cạnh.

Hôm nay Lý Vân Sưởng mặc một bộ trường bào trắng xóa, thắt lưng nguyệt sắc, bên cạnh đeo một khối mặc ngọc thượng đẳng, hình dáng hơi thô cũ. Tóc đen dùng một dải lụa bạc tùy ý buộc lên, không dùng phát quan cũng không cài trâm, trên trán có vài sợi tóc bị gió thổi bay, cùng bay nhảy với dải lụa bạc, lộ vẻ nhẹ nhàng khoan khoái.

Trang phục vừa giản dị nhưng cũng tỏ vẻ cao quý bẩm sinh, hai mắt trong veo thấy nàng nhìn qua cũng lập tức liếc lại, tựa như sao trên trời, lóe ra ánh sáng chói lọi. Bên môi hắn ẩn hiện nụ cười, khuôn mặt vốn đã ưa nhìn càng thêm nhu hòa, đôi môi mỏng được tắm ánh mặt trời lại diễm lệ vài phần.

Tuệ An đỏ bừng hai má, tim đập rộn lên, vội vã cúi đầu. Thầm cười khổ trong lòng, nhìn đi, câu châm ngôn kia nói không sai chút nào, quả nhiên là giang sơn dễ đổi bản tính khó dời, Lý Vân Sưởng không hiểu sao vẫn cứ hợp mắt Tuệ An, đúng là oan nghiệt mà.

Bên kia Lý Vân Sưởng cũng liếc nhìn vành tai đỏ bừng trong suốt của Tuệ An, cùng cần cổ trắng mịn, hắn mấp máy khóe môi, cười dời mắt sang chỗ khác, trong mắt rõ ràng là niềm sung sướng vô hạn.

Mà Đoan Ninh thì đang túm lấy mép váy chạy như bay tới bên cạnh Quan Nguyên Hạc, đôi mắt to tròn rực rỡ nhìn mãi không chớp, ngọt ngào nói: “Tam ca ca, chúc mừng huynh đánh tan Đông Khương, khải hoàn trở về.”

“Công chúa gọi nhầm người rồi, Thuần vương điện hạ hiện giờ đang ở trong cung.”

Quan Nguyên Hạc bỏ lại một câu, thậm chí không dừng mắt trên người Đoan Ninh công chúa lấy một lần, cứ thế lướt qua nàng đi về phía chuồng ngựa.

Tuệ An nghe vậy thiếu chút nữa hai mắt rơi cả ra ngoài. Tục ngữ nói đưa tay không đánh mặt người cười, người ta một mỹ nhân như Đoan Ninh luôn tươi cười gọi y một tiếng Tam ca, y lại đối xử với người ta như vậy, đúng là đồ không hiểu phong tình, nếu nàng là Đoan Ninh e là đã uất ức mà chết từ lúc nào rồi.

Tuệ An khẽ giật khóe miệng, trong lòng cũng thoải mái hơn, nghĩ Quan Nguyên Hạc này vốn đã ăn nói khó nghe, nàng bị y chọc tức đến hai lần cũng không to tát gì, dù sao người ta đối với công chúa còn như vậy nữa là.

Rất hiển nhiên thái độ của Quan Nguyên Hạc đối với Đoan Ninh trước giờ chưa từng thay đổi, cho dù y có lạnh lùng như băng, nhưng Đoan Ninh thì vẫn chú chim lúc nào cũng vui vẻ quấn lấy y, không bao giờ tức giận vì bị y lạnh nhạt, đầy nhiệt tình đáp: “Lão thái quân là dì ruột của phụ hoàng, Văn Hiên ca ca lại là cháu ruột lão thái quân, người ta muốn giống Khiết muội muội gọi Văn Hiên ca ca một tiếng Tam ca cũng không được sao.”

Trước kia Đoan Ninh đều gọi Quan Nguyên Hạc là Văn Hiên ca ca, chỉ lần này gặp lại y, nghĩ nhiều người gọi y như vậy, không khỏi có chút giận dỗi, chỉ mong có thể càng thêm thân thiết, nên mới theo tiểu thư Quan phủ mà gọi một tiếng Tam ca.

Lần này Quan Nguyên Hạc ngay cả một câu qua loa cũng không nói, để cho Đoan Ninh tự nói tự trả lời, không mở miệng nữa.

Thế này rõ ràng chẳng khác nào đại sư trong chùa cả, Tuệ An nhìn đến sững sờ, cũng không biết vị Đoan Ninh công chúa này lấy đâu ra động lực, đối với một khối băng biết đi như vậy, lại vẫn có thể cố chấp nhiệt tình đến thế.

Kiếp trước nàng theo đuổi Lý Vân Sưởng, ít nhất còn được đáp lại một chút. Lại nói Lý Vân Sưởng đúng là một người xứng với bốn chữ ‘thương hương tiếc ngọc’, mặc kệ là chán ghét nàng bao nhiêu, nhưng khi nàng nói chuyện hắn cũng còn biết đáp lại đôi câu. Đâu như Quan Đại tướng quân, đối mặt với một mỹ nhân như Đoan Ninh, mặt không đổi sắc mà cũng chẳng rặn ra được một chữ.

Tuệ An nghĩ vậy bỗng cảm thấy thụ sủng nhược kinh, khi mình nói chuyện thì y còn biết phun châu nhả ngọc cơ đấy. Nhưng Tuệ An lập tức lại nghĩ, nếu mình cũng như Đoan Ninh theo đuổi quấn quýt lấy Quan Nguyên Hạc như vậy, có khi nào y sẽ trực tiếp một cước đá bay nàng không?

Tuệ An rùng mình một cái, bên kia Quan Nguyên Hạc đã đến trước chuồng ngựa, hành lễ với Lý Vân Sưởng, nói:

“Nơi này đơn sơ, kính xin điện hạ cùng công chúa dời bước đến Phúc Đức viện nói chuyện.”

Các trưởng bối đều đang trò chuyện rôm rả ở Phúc Đức viện, tiểu bối bọn họ ở nơi này cũng không được lễ phép cho lắm, Lý Vân Sưởng gật đầu đi đến bên cạnh Lưu Vân vuốt ve nó thêm một lần, sau mới cất bước ra khỏi chuồng ngựa.

Nếu như đến chỗ trưởng bối, đâu còn có thể lôi kéo Quan Nguyên Hạc nói chuyện như bây giờ. Đương nhiên Đoan Ninh không cam lòng, ngăn ở trước mặt Quan Nguyên Hạc vẻ mặt cầu khẩn làm nũng nói: “Văn Hiên ca ca có thể đem ngựa con tặng cho Đoan Ninh không? Đoan Ninh thật sự thích nó lắm.”

Quan Nguyên Hạc nghe vậy như có như không liếc mắt qua Tuệ An ở một bên đang căng thẳng nhìn mình, thanh âm nhàn nhạt nói: “Ngựa là của Tần vương.”

Một câu nói đã chặn hết mọi hy vọng của Đoan Ninh, ngay cả cơ hội đáp lời cũng không có, Tuệ An thở phào nhẹ nhõm, trong lòng bất giác buồn cười. Thầm than Đoan Ninh công chúa này đúng là số mạng không tốt, thích ai không thích sao cứ phải đâm đầu vào một tượng đá không tim không phổi kia chứ.

Đoan Ninh thấy vậy lại đành phải quay sang ỉ ôi với Lý Vân Sưởng, vừa rồi Lý Vân Sưởng cũng thấy rõ vẻ khẩn trương hiện lên trên mặt Tuệ An, lại thấy nàng chỉ một mực chú ý đến ngựa con, cũng không muốn tặng ngựa cho Đoan Ninh, thế là ra vẻ trách cứ nói:

“Giảo Nguyệt của muội đã rất khá rồi, ngay phụ hoàng cũng khen là bảo vật hiếm có, sao còn tham lam đến ngựa của Thất ca nữa? Thất ca nghe nói gần đây mẫu hậu đang dốc lòng cho muội học nữ công, nếu huynh tặng ngựa con này cho muội thật, khiến muội không chuyên tâm học hành, rồi mẫu hậu cũng sẽ oán trách Thất ca này. Thôi được rồi, chuyện này để sau hãy nói, chúng ta đi thỉnh an lão thái quân trước đã, đừng ầm ĩ nữa, nếu không Thất ca cũng không dám dẫn muội xuất cung nữa đâu.”

Đoan Ninh nghe vậy thì rầu rĩ bĩu môi, ủy khuất nhìn Quan Nguyên Hạc một cái, lẩm bẩm: “Hừ, Thất ca với Văn Hiên ca ca đều không thương Minh Hoa.”

Tuệ An nghe Quan Nguyên Hạc nói đem ngựa con giao cho Lý Vân Sưởng, cũng u sầu nhìn nó, buồn bã đi ra khỏi chuồng. Ngựa này nếu như ở trong tay Quan Nguyên Hạc thì may ra nàng còn có cách túm nó về, nhưng đến tay Lý Vân Sưởng, nàng nghĩ cũng không buồn nghĩ.

Mấy người được một toán nha hoàn dẫn đường đến Phúc Đức viện, Quan Nguyên Hạc cùng Lý Vân Sưởng sóng vai đi phía trước, Tuệ An nhìn theo hình bóng của hai người, chỉ thấy cao ngất bất phàm như nhau, nhưng lại nhớ ngựa hai người này cưỡi là một đôi, còn cùng nhau sinh ra ngựa con, Tuệ An lại cảm thấy rất không tự nhiên, ánh mắt qua lại trên thân hai người, hình ảnh Lăng Phong cùng Lưu Vân cọ mình thân mật ban nãy, bỗng nhiên biến thành hai nam tử phong tư trác tuyệt ôm nhau…

Tuệ An đang mơ tưởng viển vông, thì Quan Nguyên Hạc phía trước lại đột nhiên nghiêng đầu lườm nàng một cái, Tuệ An nào ngờ y bỗng dưng quay đầu, nhất thời chưa kịp thu lại vẻ mặt cổ quái, vừa vặn đối mặt với đôi con ngươi thâm trầm tĩnh mịch của y.

Thấy trong mắt y hiện lên vẻ khó hiểu, Tuệ An mới bất giác cúi đầu, không dám nhìn về phía hai người nữa.

Đoàn người đến Phúc Đức viện, đã thấy phía ngoài chính phòng đứng sẵn hai hàng cung nữ, người sau xinh đẹp hơn người trước. Trong viện không một tiếng động, Tuệ An thầm than, đúng là Thái công chúa giá lâm có khác, quả nhiên là khí thế bừng bừng.

Sớm có mama quản sự vén rèm lên, Lý Vân Sưởng cùng Quan Nguyên Hạc lần lượt vào phòng, Đoan Ninh công chúa thì ra vẻ nho nhã điềm đạm theo sát phía sau, mất hẳn dáng vẻ nhanh nhẹn hoạt bát vừa rồi.

Tuệ An cố nín cười, nhưng nhớ tới Thái công chúa đang ở trong phòng, cũng không khỏi có phần khẩn trương, nắm chặt hai tay, cụp mi theo au Đoan Ninh đi vào trong phòng.

Vừa vào cửa đã thấy một tấm bình phong bằng gỗ lê to lớn thêu đầy hoa lê hoa cúc, lộc hạc trăm tuổi ở ngay trước mắt, đi qua chính phòng, lại rẽ về phía tây, một mùi đàn hương nhàn nhạt phả đến, nâng mắt nhìn qua, cả phòng tràn ngập những lăng la tơ lụa, châu ngọc vờn quanh, cũng đầy người cười nói.

Mẹ ruột của Hiền Khang đế, Mẫn thái phi là tỷ tỷ cùng mẹ với lão phu nhân Quan phủ, cho nên Quan lão thái quân chính là dì ruột của đương kim Hiền Khang đế, được sắc phong nhất phẩm Định Quốc phu nhân. Lúc này bà đang ngồi trên giường gấm trải đệm phúc thọ an khang kéo tay Tĩnh Mẫn Thái công chúa mà tán gẫu.

Hai người khi còn khuê các là bạn thân, đến giờ cả hai đã trở thành hai bà lão đầu đầy hoa râm, con cháu thành đàn. Thấy Lý Vân Sưởng cùng Quan Nguyên Hạc, hai người mới ngừng cười nói ngồi thẳng người cho hai tiểu bối hành lễ thỉnh an.

Sau đó Đoan Ninh công chúa tươi cười nhún người thi lễ với lão thái quân, Tuệ An là người cuối cùng, thân phận cũng không cao quý như người khác, chỉ có thể thành thật quy củ hành đại lễ.

Quan lão thái quân vội phân phó nha hoàn bên cạnh nâng Tuệ An dậy, cười bảo nàng tiến lên.

Tuệ An không dám ngẩng đầu, buông mắt đi qua tùy cho lão thái quân kéo tay nàng hỏi chuyện ám sát, Tuệ An tinh tế kể lại, cuối cùng còn đế thêm một câu:

“May có tướng quân kịp thời đuổi tới, giết được Đông Khương tử sĩ kia, nếu không sợ là tiểu nữ đã gặp chuyện chẳng lành. Hôm nay tiểu nữ xin được cám ơn Quan tướng quân, đại ân đại đức của tướng quân, suốt đời này tiểu nữ cũng không dám quên, ngày sau kết cỏ ngậm vành* nhất định tương báo.”

*Đền ơn trả nghĩa cho người từng cứu giúp mình. Do tích Ngụy Khoả không mang chôn sống ái thiếp của cha mà gả cho người khác. Sau Ngụy Khoả bị giặc bao vây, nhờ có hồn của cha người ái thiếp kia kết cỏ vào chân ngựa của giặc mà Ngụy Khoả thoát được.

Tuệ An vừa nói vừa đứng lên, dáng vẻ cảm động đến rớt nước mắt, vững vàng thi lễ với Quan Nguyên Hạc.

Quan Nguyên Hạc nghe Tuệ An mang chuyện giết Đông Khương tử sĩ đẩy tới người mình, trong lòng có chút kinh ngạc, rất nhanh cũng hiểu ra.

Chung quy Tuệ An vẫn là nữ tử, không cần mang danh dũng mãnh, nếu chuyện nàng giết tử sĩ lan truyền ra ngoài, ngược lại còn bị quý nữ trong kinh chán ghét mà cô lập, thậm chí nhục mạ nàng cũng không phải không thể.

Nhớ hôm đó Tuệ An một tay túm lấy chân Đông Khương tử sĩ đem hắn kéo xuống từ trên tường, một tay nắm lấy trâm cài tóc dùng sức đâm vào ngang hông người nọ, Quan Nguyên Hạc còn cảm thấy nàng cũng phần nào có tâm huyết của một đấng nam nhi. Nhưng cũng lại quá mức lỗ mãng, hôm đó nếu không phải y dùng sỏi đánh vào đầu gối của Đông Khương tử sĩ kia, thì sao hắn có thể ập người vào vó ngựa bị ngựa một chân đá bay.

Hôm đó nàng còn hận mình chết đi được, hôm nay đã giả bộ cung kính khiêm tốn, bộ dạng cảm kích y không thôi, Quan Nguyên Hạc càng nghĩ càng buồn cười.

Không biết sao, lại nghĩ tới ngày đó ở Đoan môn, Tuệ An một mặt ân cần cười nói, một mặt ra sức dùng tay cấu véo thứ muội.

Sau đó là Tuệ An ở trong ngõ nhỏ rút dao muốn đối đầu Đông Khương tử sĩ, đầy sức lực nổi cáu với y, đảo mắt vừa thấy đầu hẻm loáng thoáng bóng người, tức thì mềm mại yếu ớt rơi lệ.

Còn cả cái hôm nàng đánh tráo thẻ hoa với Nhị tiểu thư Văn phủ, vẻ mặt nghiêm túc hỏi Văn Nhị tiểu thư rút được thẻ gì, cùng Văn Nhị tiểu thư kia kẻ xướng người họa bày trò gạt y.

Nghĩ tới những chuyện này, trong lòng Quan Nguyên Hạc thầm mắng một tiếng.

Thật đúng là một kẻ lừa đảo khó lường.

Đầu óc khẽ chuyển một cái lại muốn trêu đùa tiểu cô nương trước mặt một phen, nàng mang chuyện giết Đông Khương tử sĩ kia đẩy lên người mình, dám trợn mắt nói dối hòng lợi dụng Quan Nguyên Hạc y, tính toán tỉ mỉ đến nỗi có xếp nhất trong những kẻ giảo hoạt ở thiên hạ này cũng không ngoa.

Tuy chỉ là tiểu nha đầu không hiểu chuyện, nhưng không phải y cũng nên thu ít lợi tức sao?

Cho nên Quan Nguyên Hạc khẽ nhíu mày, nói: “Ừm? Kết cỏ ngậm vành? Thẩm cô nương nói nghiêm trọng quá rồi, Quan mỗ cứu cô nương là bổn phận nên làm, là điều đương nhiên, nếu như thật sự trong lòng Thẩm cô nương cảm thấy băn khoăn, thì Quan mỗ đúng là có một chuyện muốn nhờ.”

Tuệ An nhất thời sững sờ, theo lý thì lúc này chẳng phải Quan Nguyên Hạc nên tỏ vẻ chính nhân quân tử, nói mấy câu chẳng hạn như “Không cần lo lắng”, “Tiện tay mà thôi” sao?

Hôm đó y nào có giúp nàng, bảo nàng báo ân cái gì chứ? Sao lúc này y có thể vênh mặt mà nói như thế, người này không cư xử theo lẽ thường gì cả!

Tuệ An phát hiện tình huống không ổn, chỉ ngại có vô số ánh mắt đang nhìn vào mà không dám từ chối, hận không thể ngẩng đầu lên mà lớn tiếng bày tỏ trong lòng mình chẳng có một tí tẹo băn khoăn nào.

Nhưng nàng đã đâm lao phải theo lao, cánh mũi khẽ phì phò vài hơi, thanh âm buồn bực cười nói: “Ha ha, Quan tướng quân nói gì lạ thế, ngài là cái thế anh hùng của Đại Huy ta, tiểu nữ thì có gì để cho tướng quân phải nhờ vả…”

Nói xong, Tuệ An cực nhanh ngẩng đầu trừng Quan Nguyên Hạc một cái. Thầm nghĩ, này này, không thấy người ta không vui rồi sao, biết điều thì mau mau thu lại lời ngài vừa nói đi.

Nào biết Quan Nguyên Hạc lại giống như căn bản không nhìn ra nàng không vui, lông mi cũng không thèm động đậy nói: “Vậy cũng chưa chắc, Quan mỗ có một mảnh đất ở Tây Giao, nuôi vài con ngựa, đúng mấy ngày nay thú y chỗ ta sinh bệnh, tạm thời cũng không dễ tìm được người thay thế, vừa rồi Quan mỗ thấy dường như cô nương đối với việc chăm sóc cho ngựa có phần hiểu biết hơn người, không biết cô nương có thể giúp Quan mỗ trông coi mấy ngày có được hay không? Đợi đến khi mấy con ngựa dưỡng tốt bệnh, Quan mỗ nhất định đích thân đến cửa bái tạ cô nương.”

Tuệ An nghe vậy hận đến nghiến răng nghiến lợi, nhưng cũng không thể mở miệng nói không. Chỉ có thể cười ngẩng đầu, nói: “Có thể giúp được tướng quân là vinh hạnh của tiểu nữ, tướng quân ngàn lần đừng nói lời cám ơn, tiểu nữ thật không gánh nổi.” Nói đến câu cuối thì đã lộ vẻ nghiến răng nghiến lợi.

Bên này Tuệ An cùng Quan Nguyên Hạc đưa mắt chém giết nhau, bên kia Đoan Ninh công chúa với Lý Vân Sưởng đã đem chuyện ở chuồng ngựa nói cho Thái công chúa và Định Quốc phu nhân nghe.

Lý Vân Sưởng đang cùng Thái công chúa nói đến lai lịch của Lưu Vân, ánh mắt thoáng nhìn qua Tuệ An với Quan Nguyên Hạc đấu khẩu, khẽ nhướng mày, như có điều suy nghĩ nhìn Quan Nguyên Hạc một cái.

Định Quốc phu nhân nghe nói là nhờ có Tuệ An hỗ trợ mới cứu được Lưu Vân, cũng lại gọi nàng đến bên cạnh, kéo tay của nàng hỏi: “Đứa bé này tuổi còn nhỏ không ngờ đã biết nhiều về ngựa như vậy, là theo ai học thế?

Tuệ An vội vàng cười nói: “Khiến lão thái quân chê cười, An nương cũng không quá hiểu, chỉ là mẫu thân yêu ngựa, lúc trước trong phủ cũng nuôi vài con ngựa, đều là đích thân mẫu thân chăm sóc, An nương cũng đi theo học một ít, đều là chút tài lẻ thô thiển không đáng nhắc tới, hôm nay có thể giúp được cũng là may mắn mà thôi.”

Định Quốc phu nhân thấy nàng tuổi nhỏ mà đã có phong thái trang nhã hiếm thấy, nói chuyện cũng rõ ràng mạch lạc, khiêm tốn có lễ, trong lòng thích thú, vỗ về tay Tuệ An, nói: “Chăm sóc ngựa cũng là một tài nghệ, nào phân cao thấp cái gì. Chỉ thấy qua mẫu thân làm mà ghi nhớ được rõ ràng như vậy, cũng là do có lòng học hỏi, là đứa bé ngoan.”

Bà nói lời cuối thì quay sang nhìn Tĩnh Mẫn Thái công chúa, Thái công chúa nghe vậy cũng cười nhìn Tuệ An, nói: “Cũng rất thông minh.”

Tuệ An thấy Thái công chúa hiền hòa nhìn mình, giống như có ẩn ý, lại nhớ tới chuyện đụng xe do Đỗ Mỹ Kha dàn xếp ở ngã tư đường hôm đó.

Sau khi xảy ra chuyện nàng từng phái Xuân Nhi đi theo xe ngựa của Trưởng công chúa, chỉ muốn xem một chút Đỗ Mỹ Kha tìm đến trợ thủ gì, để về sau còn có thể đối phó, không ngờ ngồi trong xe lại là Thái công chúa.

Thái công chúa đương nhiên không thể nào là trợ thủ mà Đỗ Mỹ Kha có thể mời tới, bà chỉ trùng hợp bị Đỗ Mỹ Kha tính kế lên người thôi. Thân phận của Thái công chúa cao quý đến nhường nào, sao có khả năng không có cao thủ bảo vệ bên người, hôm đó mặc dù Xuân Nhi có cẩn thận đến đâu, cũng khó mà giấu diếm được thị vệ của hoàng gia. Cho nên khi Tuệ An biết người trong xe chính là Thái công chúa, cũng biết việc nàng cử Xuân Nhi bám theo xe ngựa tất nhiên Thái công chúa sẽ biết, nàng còn luôn lo lắng không biết Thái công chúa có trách tội không.

Lúc này nghe Thái công chúa khen nàng thông minh, mới yên tâm phần nào, cũng không khỏi xấu hổ đỏ bừng hai má cúi đầu.

Lý Vân Sưởng cũng hiểu rõ tính tình của Thái công chúa, bà không phải là người dễ buông lời khen ngợi, nghe vậy ánh mắt hắn lóe lên, thấy Tuệ An xấu hổ cúi đầu thì biết ngay trong chuyện này có nguyên nhân khác, không biết nha đầu kia đã làm chuyện gì mà lại có thể khiến Thái công chúa không tiếc lời khen “Thông minh”.

Nhớ đến hôm đó ở Đoan môn, Tuệ An vung roi chín khúc che chở Văn Cảnh Tâm cùng Tôn Tâm Từ, hắn cảm thấy nàng cực kỳ dũng cảm. Dường như hắn đã từng nghe nói qua, Phượng Dương hầu Thẩm Thanh lỗ mãng, dạy con cũng thế, không hiểu lễ nghi. Nhưng vài lần gặp Tuệ An thấy nàng cũng không phải không hiểu lễ nghĩa, còn có chút hơn hẳn người thường là đằng khác.

Bên kia Đoan Ninh công chúa nhưng có phần mất hứng, nàng thấy Văn Hiên ca ca luôn lạnh lẽo khắc nghiệt với mình lại có thể cùng Thẩm Tuệ An nói tận một tràng dằng dặc, vốn trong lòng đã tức tối khó chịu, lại nghe Định Quốc phu nhân và Thái công chúa cùng nhau khen Tuệ An.

Phải nói hai người này đều không hay mở miệng khen người khác, thiên chi kiều nữ như Đoan Ninh nàng, cũng không được khen qua như vậy, nói cách khác, trên địa bàn của nàng há lại có thể để người khác trở thành tâm điểm? Huống chi còn là trước mặt Văn Hiên ca ca!

Nàng chỉ cảm thấy mất hết thể diện, sắc mặt trầm hẳn xuống, bĩu môi một cái, cười nói: “Nếu nhắc đến chăm ngựa, Hoa nhi chợt nhớ ra, hôm kia con ở chỗ mẫu hậu tình cờ nghe được hình như phụ hoàng đang có ý muốn ban bố Phục mã sách lần thứ hai? Thất ca có biết chuyện này không?”

Lý Vân Sưởng nghe vậy, cười gật đầu: “Chuyện này Hoàng thượng và quan viên trong triều vẫn đang bàn bạc, hiện giờ đã có hơn một nửa quan viên ủng hộ thi hành, chỉ có Nội các Đại học sĩ Lưu đại nhân vẫn lấy lý do cần bình phục dư nghiệt của Minh vương ở phía nam là phản đối, nhưng theo bản vương thấy, lần này sợ là triều đình chắc đến chín phần sẽ ban bố lại Phục mã sách.”

Phục mã sách là chính sách triều đình dùng để khích lệ những người dân biết cách thuần ngựa, tiền triều cũng từng thi hành Phục mã sách, một người dân có ngựa, có thể miễn đi lính.

Bởi vì ngựa là con vật đứng đầu trong lục súc, liên quan mật thiết với việc Vương Chiêu Quân phải hòa thân, cũng cực kỳ quan trọng trong việc quyết định thắng thua của cả quốc gia. Sau khi Đại Huy kiến thiết nước nhà, lúc Thánh Tổ, Thái Tổ cầm quyền vì hai phương nam bắc đều không yên ổn, thế lực phản động không ngừng làm loạn, cho nên triều đình quản lý ngựa của dân chúng tương đối là nghiêm khắc.

Đến khi Hiền Khang đế đăng cơ, Đại Huy đã cơ bản bình định được Trung Nguyên, trải qua hai thời nghỉ ngơi lấy sức, thực lực của Đại Huy cũng đã ngày càng trở nên mạnh mẽ. Vì biên giới phía bắc Đại Huy có tộc người Bắc Hồ thường xuyên quấy rối, cho nên Hiền Khang đế mới muốn đề xuất thi hành phục mã sách lần thứ hai, nhưng mà cả hai lần nhắc đến đều vì có đại thần cố ý phản đối mà bị gác lại.

Bây giờ Đông Khương đã diệt quốc, binh lực của Đại Huy thì càng ngày càng hùng mạnh, uy danh của Hiền Khang đế cũng lên cao, hùng tâm tráng chí chôn dấu, giờ chỉ đợi được mở ra. Mà Bắc Hồ vẫn xâm lấn không ngừng, hoàng đế lần nữa ban bố Phục mã sách tuyệt đối không khiến người ta có cơ phản bác.

Tuệ An nghe vậy mỉm cười thầm nghĩ, Hiền Khang đế nhắc lại Phục mã sách chính là để chuẩn bị cho trận Bắc chinh sau này, vậy thì cho dù kiếp này có vài chuyện không giống với kiếp trước, nhưng không phải Đại Huy vẫn rất có khả năng sẽ khai chiến với Bắc Hồ hay sao?

Như vậy thì trận dịch ngựa năm Hồng Đức thứ mười hai có phải sẽ vẫn bùng phát?

Trong lòng Tuệ An sốt ruột lên, rồi lại không thể không thầm mắng mình thất đức, thế nhưng lại tâm tâm niệm niệm mong mỏi bùng phát ôn dịch.

Tuệ An vẫn thất thần, bên kia Đoan Ninh công chúa đã kéo lấy tay Thái công chúa, đẩy Tuệ An ra, cười nói: “Thái cô cô, Hoa Nhi còn nhớ Nhã Khanh tiểu thúc thúc yêu ngựa vô cùng, lúc nhỏ người còn nói với Hoa Nhi sau này sẽ mua hơn một ngàn mẫu đồng cỏ, chỉ để nuôi ngựa. Nếu như triều đình thật sự ban hành Phục mã sách lần nữa, không biết Nhã Khanh tiểu thúc thúc sẽ vui mừng thế nào đâu.”

Thái công chúa nghe vậy, cũng cười một tiếng, tổ tiên Tiền gia xuất thân là thương nhân buôn ngựa, lúc Thánh Tổ hoàng đế giành được thiên hạ thì cũng là khi phải trả lại nợ cho những người đã ủng hộ tài lực trước đó, vì vậy nên càng phải nhờ đến sự giúp đỡ của Tiền gia mới có một lượng chiến mã lớn.

Sau khi Đại Huy kiến triều ra lệnh nghiêm khắc khống chế người dân buôn bán ngựa, Tiền gia tuy được sắc phong vương tước, nhưng cũng không thể làm tiếp nghề cũ. Nhưng có thể do tổ tiên Tiền gia làm nghề buôn bán ngựa, cho nên mỗi người trong nhà đều cực kỳ yêu ngựa, đứa con kia của bà, chính là ví dụ rõ ràng nhất, ngày nào cũng vơ vét ngựa quý khắp bốn phương tám hướng, vì một con ngựa có thể không ăn không uống, khổ cực thế nào cũng không chịu thôi, khiến bà cực kỳ bất đắc dĩ.

Giờ nghe Đoan Ninh công chúa nhắc tới con trai của mình, Tĩnh Mẫn Thái công chúa lộ vẻ sủng ái cùng bất đắc dĩ, cười nói: “Trí nhớ con tốt thật đấy, bản cung nhớ Nhã Khanh đến kinh thành lần gần nhất đã mười năm rồi, khi đó con còn là một cô bé mới có một chỏm tóc.”

Đoan Ninh nghe vậy nhướng mày cười một tiếng: “Nhã Khanh tiểu thúc thúc đối xử với con là tốt nhất, Hoa Nhi đương nhiên là nhớ rõ.”

Định Quốc phu nhân nghe vậy, cười nói: “Ta nhớ Nhã Khanh so với Cẩm Nô chúng ta chỉ nhỏ hơn hai tuổi, sinh vào cuối năm An Khang thứ tám, giờ chắc cũng đến tuổi nhược quán*, vậy đã định hôn chưa?”

*Nhược quán (Lễ đội mũ): Ngày xưa, con trai hai mươi tuổi thì làm lễ đội mũ, cho nên con trai mới hai mươi tuổi gọi là “nhược quán”

Tĩnh Mẫn Thái công chúa nghe vậy vẻ mặt bất đắc dĩ khẽ nhìn sang Quan Nguyên Hạc đang ngồi ngay ngắn, nói: “Đừng nói nữa, đứa con bất hiếu đó của ta giống hệ Cẩm Nô không ép buộc được, ngày nào cũng thích ra ngoài vui chơi, tính tình khó bảo. Không phải thế ư, vốn là cùng ta vào kinh, ai ngờ đi đến nửa đường nghe nói công tử nhà Tri phủ Tế Ninh có được một con ngựa tốt, bỏ lại một câu đã biến mất tăm, bây giờ không chừng còn đang ở đó hớn hở. Nếu như con khỉ lưu manh nhà ta có thể được một phần chững chạc như Cẩm Nô thôi, ta cũng không cần phí công lo lắng cho nó như vậy.”

Tiền Nhã Khanh trong miệng Tĩnh Mẫn Thái công chúa chính là đứa con trai duy nhất của bà, cũng là con trai trưởng duy nhất của Tiền gia, cả đời Tĩnh Mẫn Thái công chúa đường con cái khó khăn, đến năm bà bốn mươi ba mới may mắn có được đứa con này, mà lại từ nhỏ ốm yếu, nên đặt theo tên nữ tử để hy vọng có thể thay hắn chắn lại một chút bệnh tật.

Đại Huy đối với Phò mã mặc dù khoan dung, cũng không hạn chế thu thiếp thất nạp thông phòng cùng công chúa chung một chồng, nhưng Tiền gia kia dù sao chỉ là một nhà theo nghiệp thương, tuy nói có công kiến triều đối với Đại Huy, nhưng vẫn có địa vị thấp, Tiền Giáo dù là phú địch khả quốc, cũng không dám cưới công chúa mà còn ngồi hưởng một phòng thiếp thất.

Tĩnh Mẫn Thái công chúa nhiều năm chưa có con, cũng chỉ có thể có một mình công chúa nơi hậu viện, may là Tiền Giáo kia có đến tám vị huynh đệ cả đích lẫn thứ, nên không sợ cắt đứt hương khói của Tiền gia. Tiền Giáo vốn tưởng đời này đã không duyên con cái, từng có ý chọn ra một trong những đứa cháu mang về làm con thừa tự kế nghiệp cho ông, ai ngờ đến khi Tĩnh Mẫn Thái công chúa đã sắp về già lại sinh được Tiền Nhã Khanh.

Có thể nói Tiền Nhã Khanh sinh ra đã sủng ái có thừa, ngày đầy tháng được tiên đế sắc phong làm Tĩnh Bắc hầu, tuy chỉ là hư danh, nhưng cũng là vinh quang tột bậc. Trên người mang tước vị, lại có chỗ dựa là người mẹ công chúa, trong nhà tiền tài vô kể, cho nên Tiền Nhã Khanh từ nhỏ đã coi trời bằng vung, ngang ngược bá đạo, sau khi lớn lên càng thêm nghiêm trọng, động cái là phóng ngựa khắp đường đánh nhau sinh sự, ngày ngày cùng một đám công tử bột ở Kỳ Châu cưỡi ngựa xem hoa, trêu hoa ghẹo nguyệt, bao nuôi con hát, là điển hình của một tiểu Bá vương.

Trước kia Thái công chúa từng tìm cho hắn một mối hôn sự, ai ngờ Tiền Nhã Khanh không hài lòng nên ầm ĩ muốn từ hôn, Thái công chúa không đồng ý, hắn lại tìm cách hỏi thăm biết được tiểu thư nhà này sẽ cùng vài vị khuê mật dạo chơi ở ngoại ô vào mấy hôm nữa, thế là trực tiếp mang theo con hát mình mới bao tìm đến, mỉa mai chế nhạo một phen, khiến cô nương kia phải xấu hổ giận dữ trở về suýt nữa tìm chết, hôn sự tự nhiên không còn nhắc đến. Thái công chúa chỉ có một đứa con trai này, tất nhiên là muốn chọn cho con trai một cửa hôn nhân tốt nhất, chỉ khổ gia đình quan viên Giang Nam phàm là biết rõ chuyện này đều không muốn mang khuê nữ gả cho một người như vậy, hơn nữa Thái công chúa mặc dù thân phận cao quý, nhưng rốt cuộc Tiền gia chỉ là nhà thương gia, hôn sự của Tiền Nhã Khanh cứ lưng chừng nên càng thêm khó.

Mắt thấy con trai đã đến tuổi nhược quán, bản thân thì cũng đã già rồi, Thái công chúa sao có thể không vội ôm cháu cho được, lần này cũng hết cách, đành đem mục tiêu chuyển đến kinh thành, mang theo con trai thẳng tiến kinh đô Phượng An.

Đối với chuyện này tất nhiên Định Quốc phu nhân cũng biết rõ, nghe vậy cười cười, nói: “Bà cũng đừng khen Cẩm Nô, nó trưởng thành đã lâu, mà mỗi lần nhắc đến hôn sự là y như rằng lại lảng sang chuyện khác.”

Tuệ An ở một bên nghe vốn có chút mơ hồ, thấy Định Quốc phu nhân cùng Thái công chúa liếc về phía Quan Nguyên Hạc, bấy giờ mới hiểu ra Cẩm Nô trong miệng hai bà nói chính là y.

Không ngờ Quan Nguyên Hạc lại có…nhũ danh kỳ quái như vậy, lại nhớ đến vẻ mặt nghiêm trang của khối băng kia, Tuệ An suýt thì bật cười thành tiếng, cả khuôn mặt đỏ bừng lên vì nghẹn.

Tuệ An vẫn đang hí hửng, Quan Nguyên Hạc lại đột nhiên dùng ánh mắt lạnh lùng liếc nàng một cái, con ngươi thâm trầm như xoáy nước muốn nuốt chửng lấy nàng, dọa cho Tuệ An sặc lên, vội cúi đầu ho khan vài tiếng, không dám lại ngẩng lên nữa.

“Thái cô cô với dì không phải lo lắng, khuê tú trong kinh thành nhiều không kể xiết, mà tiểu thúc thúc cùng Văn Hiên ca ca đều là tuổi trẻ tài cao, đấng nam tử hiên ngang khẳng khái, đương nhiên phải là một cô nương vừa có dung nhan mỹ lệ, thân phận cao quý lại đoan trang hiền thục mới có thể xứng đôi.”

Bên tai truyền đến giọng nói thanh thúy của Đoan Ninh công chúa, Tuệ An ngẩng đầu đã thấy nàng đang thẹn thùng e lệ nhìn Quan Nguyên Hạc. Ngẫm lại lời Đoan Ninh vừa nói, khuê tú trong kinh thành mà có thân phận cao quý đến đâu liệu có qua được Đoan Ninh công chúa nàng, cô nương vừa có tướng mạo lại đoan trang hiền thục, thân phận cao quý trong lời nàng rõ ràng là tự ám chỉ bản thân.

Lời này đến nỗi là rõ ràng, chỉ thiếu điều nói thẳng toẹt ra hãy chọn ta làm con dâu cho Quan gia các vị đi, ta đây chính là thích hợp nhất.

Tuệ An thấy Đoan Ninh công chúa đỏ ửng hai má, dáng vẻ muốn nói lại thôi, đưa dung mạo vốn đã xuất chúng càng trở nên kiều mị quyến rũ, khiến người ta vừa nhìn đã mềm lòng, là nàng nhìn thấy cũng thấy ngứa ngáy trong lòng nữa là.

Tuệ An lại nhìn sang Quan Nguyên Hạc, đã thấy y vẫn bày ra mặt khối băng không hề thay đổi, mà ngay cả nhìn cũng không nhìn Đoan Ninh một cái, khóe miệng Tuệ An khẽ giật giật một cái.

Thật ra Đại Huy từ đời này sang đời khác cũng dần dần buông lỏng đối với sự hạn chế của các Phò mã, công chúa Phò mã cũng không như triều đại trước chỉ có chút hư danh trên triều. Phò mã Đại Huy cũng có chức quan, giống như Phò mã của Triêu Dương Trưởng công chúa hiện giờ đang nhậm chức chính nhất phẩm chưởng quản Lễ bộ thuộc hàng đại thần trong triều, có thể nói ông chính là thân tín bậc nhất của hoàng đế.

Các đời con e trong danh gia vọng tộc không muốn lấy công chúa, phần nhiều là vì bọn họ không cần phải thỉnh một pho tượng công chúa về làm hỏng mặt mũi, hơn nữa lấy công chúa thì cũng chẳng khác nào chặt đứt con đường làm quan của người trong gia tộc. Thế nhưng Phò mã Đại Huy thì không phải lo lắng những chuyện đó, có công chúa còn khiến đường làm quan thuận buồm xuôi gió, điều này cũng thúc đẩy sự hoan nghênh mà từ trước tới nay những nàng công chúa Đại Huy chưa từng được hưởng.

Đoan Ninh công chúa được sủng ái đến nhường nào, ai cưới nàng cũng có thể biết trước nhất định là một bước lên mây, chưa kể Đoan Ninh công chúa tướng mạo xuất chúng, xinh đẹp diễm lệ, chỉ khổ một nỗi cứ mãi lao đầu vào Quan Nguyên Hạc, thế mà y lại hoàn toàn không có động tâm. Người này có khi sinh ra đã thiếu thốn gì đó thì phải, Tuệ An rủa thầm trong lòng.

“Đoan Ninh công chúa cát tường, vậy thì Tam ca phải sớm ngày cưới về một tam tẩu thân phận cao quý, tướng mạo xinh đẹp về cho muội rồi.” Quan phủ Tam cô nương, muội muội kế của Quan Nguyên Hạc, Quan Lễ Khiết cười nói

Nàng nói xong cười tủm tỉm nhìn Đoan Ninh công chúa, Đoan Ninh công chúa cũng nhìn nàng, lại cực nhanh liếc đến phu nhân kế thất của Quan Bạch Trạch là Thôi Minh Nguyệt, thấy bà từ đầu đến cuối đều hạ mắt làm như căn bản không nghe thấy lời mình nói, không khỏi thất vọng cúi đầu.

Tuệ An thấy vậy hơi mấp máy môi, nghĩ Thôi thị kia chỉ là kế thất, không phải mẹ đẻ của Quan Nguyên Hạc, nếu Quan Nguyên Hạc nghênh một nàng công chúa về phủ, bà lấy đâu chỗ để ra vẻ mẹ chồng, không nói có thể điều khiển được nàng dâu này hay không, e là còn phải nhìn sắc mặt của nàng ấy chứ, chỉ một điểm này Thôi thị sợ là cũng chẳng hi vọng Đoan Ninh gả vào Quan phủ.

Định Quốc phu nhân đương nhiên tường tận tâm tư của Đoan Ninh công chúa, nghe vậy cũng không tiếp lời, chỉ cười nói:

“Được rồi, hôm nay cũng không bắt ép bọn trẻ các con nữa, biết rõ các con ngồi không yên, tìm chỗ nào vui đùa đi thôi, mấy đứa Khiết Nhi nhớ phải chiêu đãi thật tốt cho công chúa và Thẩm tiểu thư đấy.”

“Bọn con đều là những cô nương cực kỳ hiếu thuận hiền thục, ngồi yên một chỗ thì có là gì, tổ mẫu muốn cùng Thái công chúa điện hạ nói lời riêng với nhau, chê chúng con chướng mắt, muốn đuổi chúng con đi, còn đổ lỗi cho chúng con nữa. Lễ Khiết không muốn nghe lời đâu.” Định Quốc phu nhân nói xong, Quan Lễ Khiết vẻ mặt giận dỗi cười nói.

Nàng là đích nữ của Quan phủ, vốn được sủng ái, lại lớn lên xinh đẹp trắng trẻo, cực kỳ khiến người ta yêu thích, miệng cũng ngọt, ngày thường vẫn được lòng Quan lão thái quân nhất. Lúc này nàng ra vẻ giận dỗi, sóng mắt lưu chuyển quả thực vừa dí dỏm lại đáng yêu, làm Định Quốc phu nhân cùng Thái công chúa cười mãi không dứt.

“Xem cái tính khí thất thường của nha đầu kia kìa, ngay cả tổ mẫu mà cũng dám oán trách ra mặt nữa.” Định Quốc phu nhân cười nói, nhưng mặt mũi lại tràn đầy yêu chiều.

“Nha đầu này ỷ vào nương cưng chiều nó, cho nên mới càng ngày càng không biết trên dưới như thế.” Thôi thị cười tiếp lời.

Quan Lễ Khiết nói thì như vậy, nhưng người đã đứng lên, các vị tiểu thư Quan phủ cũng vội vàng đứng dậy, trong tiếng cười nói ríu rít, hành lễ cáo lui.

Quan Lễ Khiết thi lễ xong thì đi về phía Tuệ An, kéo tay của nàng cười nói: “Thẩm muội muội là khách quý hiếm có, Tam công chúa thường xuyên lui tới thì không nói rồi, chỉ có muội, hôm nay mới là lần đầu tiên muội đến, lần trước trong phủ mở hội thưởng hoa ta có gửi thiệp mời cho muội, vậy mà muội cũng không nể mặt ta đến chơi, hôm nay ta phải hỏi cho ra nhẽ mới được.”

“Tỷ tỷ nói vậy oan cho An nương quá, không phải là An nương không nể mặt tỷ tỷ, tỷ tỷ cũng biết ta là người thô thiển, những việc phong nhã như ngắm hoa làm thơ quả thật ta theo không được, có đến cũng chỉ làm nhục hoa đẹp của tỷ tỷ, tỷ tỷ tha thứ cho ta lần này, nếu như lần sau tỷ tỷ đưa thiếp, có làm trò cười cho người trong nghề chăng nữa, thì nhất định ta cũng sẽ đến quấy rầy…”

Tuệ An tám tuổi vào Quốc Tử Giám, năm đầu tiên còn có tham vọng nâng cao tên tuổi mà tham gia các buổi hội họp của khuê tú trong kinh, nhưng nàng lại là người không hiểu thi thơ, cũng dốt cầm kỳ thi họa, náo loạn mấy lần không vui, về sau còn bởi vì nghe thấy mấy vị tiểu thư nói xấu Thẩm Thanh, nổi giận đùng đùng đập phá bàn tiệc của chủ nhà, còn suýt nữa đả thương người, gánh trên người cái danh lỗ mãng, từ đó Tuệ An đối với mấy thứ hội hoa, hội thơ gì đó cũng mất hứng tham dự.

Lúc này thấy Quan Lễ Khiết là một người lanh lợi hào phóng, cũng cười cầm lấy tay nàng xin khoan dung. Hai người khoác tay nhau đi ra ngoài, phía sau Tứ cô nương chi thứ hai Quan phủ, Quan Lễ Trân với Đoan Ninh công chúa cũng đi theo, sau đó là vài cô nương thứ xuất của Quan phủ.

Ra khỏi phòng khách, Quan Lễ Khiết cười nói: “Hôm nay trời xanh trong suốt, nhưng không ấm áp cho lắm, nếu không chúng ta đã có thể vào hoa viên câu cá, không nữa thì đến Kỳ Phong viện của Tam ca cưỡi ngựa vài vòng cũng không tệ, chỉ tiếc khí trời không tốt cho lắm. Thời tiết hôm nay giá rét, theo ta thấy hay là đến viện nhỏ của ta uống chén trà nóng hàn huyên đôi câu? Đúng lúc hôm qua ta mới từ chỗ lão thái quân lấy được hơn một lạng trà kim qua lâu năm, hôm nay phải để ta mượn hoa dâng phật làm chủ nhà một bữa mới được. Bát công chúa, Thẩm muội muội cảm thấy thế nào?”

Trà kim qua là một trong những loại cống phẩm hằng năm được tiến cống cho Hoàng thượng, là do những thiếu nữ trẻ tuổi tỉ mỉ hái từ đỉnh núi Như Vụ, hơn nữa còn là những lá trà tươi đẹp nhất, vì núi Như Vụ có vị trí đặc biệt, nên hình thành một loại trà duy nhất trên đời, so với các loại trà bình thường thì có màu hồng đậm sáng ngời, mùi thơm cũng thanh khiết khác thường, uống vào trong miệng vừa ngọt vừa đậm. Chính là loại trà hàng cực phẩm, nghe nói một năm làm ra không quá hai cân, người bình thường rất khó được nhìn tận mắt. Bởi vì búp chè loại này, trải qua một thời gian dài cất giữ, sẽ chuyển thành màu vàng kim, cho nên mới gọi là kim qua.

Cho dù tôn quý như Hoàng hậu một năm cũng chỉ có thể theo như luật lệ trong cung được phân hai lạng trà kim qua, vậy mà Quan Lễ Khiết lại có nửa lạng trà này, cũng đủ thể hiện nàng ở Quan phủ được sủng ái ngần nào.

Đoan Ninh công chúa là ái nữ của Hoàng hậu, tất nhiên là không hiếm lạ gì trà này, hơn nữa Quan Nguyên Hạc còn ở trong phòng cùng Thái công chúa và Định Quốc phu nhân nói chuyện, nàng vốn một lòng muốn ở lại nhưng lại cảm thấy vừa rồi Định Quốc phu nhân cùng Thôi thị không tiếp lời của nàng, khiến nàng mất mặt, thẹn thùng không thể không đi. Lúc này trong lòng vừa ảo não vừa phẫn nộ, nào có tâm tư chơi đùa, nghe được lời nói của Quan Lễ Khiết cũng chỉ lơ đãng gật đầu.

Tuệ An cũng không phải là người hiểu trà, nghĩ tới không chừng bây giờ Phương mama đang ở Thu Lan viện dạy phép tắc cho Tôn Tâm Từ, nàng sợ sẽ có chuyện không hay, muốn sớm về phủ một chút, trong lòng quả thực chẳng muốn đi bình phẩm cái gì trà cả. Vậy nhưng nàng thấy Quan Lễ Khiết có ý khoe khoang, Đoan Ninh công chúa đã năm lần bảy lượt không nể mặt nàng ấy, nếu đến nàng cũng không chừa lại mặt mũi cho người ta, sợ là đắc tội Quan Lễ Khiết thật chứ chẳng đùa.

Tuệ An đành phải tỏ vẻ ngạc nhiên mừng rỡ nói: “Trà kim qua? An nương mới chỉ được uống qua trà này có một lần thôi, còn là khi mẫu thân vẫn còn, khi đó tuổi còn nhỏ, nào biết mùi vị thế nào mà thưởng thức. Hôm nay đúng là có phúc, An nương phải cẩn thận thưởng thức một phen mới được.”

Trà kim qua vô cùng hiếm có, hằng năm hoàng đế đôi khi cũng sẽ ban thưởng một chút cho vài vị phi tần được sủng ái, tổ mẫu là dì ruột của bệ hạ nên đương nhiên không thể thiếu phần, mà nàng là cháu gái tổ mẫu yêu thương nhất, thế mới được chia nửa lạng.

Hôm nay phủ Phượng Dương hầu đang trong tình thế tuột dốc không phanh, tất nhiên không thể có được trà này, cũng khó trách Thẩm Tuệ An vui mừng đến thế.

Quan Lễ Khiết nghĩ như vậy, trong lòng cảm thấy lâng lâng hẳn, càng nhìn Tuệ An lại càng thấy vừa mắt, không giống lời đồn thô lỗ nóng nảy bên ngoài. Vì vậy nàng cười vui vẻ, muốn thân mật với Tuệ An thêm chút nữa, liền kéo tay Tuệ An dẫn mọi người đi về phía Hạm Đạm viện của nàng.

Đến Hạm Đạm viện, Quan Lễ Khiết mang mọi người tới một tòa tiểu lâu tách riêng về một phía, cười nói: “Đây là Tùng Hương các ta vẫn thường đãi khách, công chúa tới chơi không ít lần, sau này Thẩm muội muội cũng phải thường xuyên đến chơi nhé.”

Tuệ An cười gật đầu, mọi người vào phòng, Tuệ An thấy trong phòng bày biện cực kỳ thanh lịch, Quan Lễ Khiết mời mọi người ngồi xuống quanh một chiếc bàn bằng gỗ lim trăm năm ở phía tây phòng, cười phân phó nha hoàn Bạch Lộ chuẩn bị dụng cụ uống trà.

Một lát sau bọn nha hoàn đã dâng lên một trà khí tinh xảo khắc hoa văn tùng cúc trúc mai, một bình nhỏ đựng nước suối trong vắt, Quan Lễ Khiết tức thì nhiệt tình mời mọi người dùng điểm tâm trước.

Quan gia là dòng dõi thư hương thế gia, trong nhà bất luận là nam hay nữ, đích hay thứ đều được đưa đến Quốc Tử Giám học từ khi còn nhỏ, Tuệ An mặc dù chưa từng tới Quan phủ, nhưng vài vị tiểu thư Quan phủ đang ngồi đây nàng đều biết.

Mẫu thân của Quan Nguyên Hạc qua đời cách đây đã lâu, phu nhân tái giá của phụ thân y, Quan Bạch Trạch, là Thôi thị, Tuệ An không phải xuất thân từ chi của Thôi Hoàng hậu, nhưng cũng được tính là đích nữ của Thanh Miên Thôi thị. Thôi thị sinh được hai con, Tứ thiếu gia Quan Nguyên Trác và Quan Lễ Khiết. Mà cô nương mặc áo hoa xanh nhạt tướng mạo ngọt ngào ngồi phía bên kia của Đoan Ninh công chúa, là đích nữ chi thứ hai Quan phủ, Tứ cô nương Quan Lễ Trân, sau nữa là thứ xuất tam phòng Quan Lễ Ngạn.

Hôm nay Quan Lễ Ngạn mặc một thân áo lụa đỏ tím thêu sóng nước lăn tăn, ánh lên da dẻ hồng hào, vô cùng xinh đẹp, lúc này nàng đang tươi cười nói với Đoan Ninh công chúa về Quan Nguyên Hạc:

“Nói đến hôn sự của Tam ca, đúng là khiến tổ mẫu lo lắng chết đi được, chỉ là Tam ca cũng chẳng mấy để ý đến mấy chuyện thế này, lẽ ra chuyện hôn nhân đều là do cha mẹ sắp đặt mới phải, vậy mà từ trước tới giờ Tam ca cứ một mực khăng khăng theo ý của mình, còn nói cô gái không đúng ý mình thì huynh ấy cũng sẽ làm trò từ hôn như Cao Dương vương cho xem. Lần này Tam ca trở lại, tổ mẫu đã xuống tử lệnh cho Đại bá mẫu, nhất định phải tìm được cửa hôn nhân tốt nhất cho Tam ca, muội nghe nói mấy ngày nay Đại bá mẫu lo lắng việc này đến mất ăn mất ngủ, hôm kia còn hỏi muội Tam tiểu thư của phủ Vĩnh Xương hầu nhân phẩm thế nào đấy.”

Bởi vì Đại Huy lối sống cởi mở, cô nương chưa lấy chồng có nói đến hôn sự của huynh trưởng không phải chuyện to tát gì, nhưng lời nói của Quan Lễ Ngạn này rõ ràng đang ám chỉ với Đoan Ninh công chúa, Thôi thị có ý muốn kết thân với phủ Vĩnh Xương hầu. Chuyện này còn chưa nhắc tới bát tự, có thành hay không khó có thể nói trước, nàng lại lấy chuyện này ra nói, lan truyền ra ngoài thì đối với thanh danh của tiểu thư phủ Vĩnh Xương hầu sẽ cực kỳ không hay. Hẳn là Quan Lễ Ngạn muốn nịnh nọt Đoan Ninh công chúa, nên mới nói những lời này.

Đối với loại người chỉ nghĩ đến lợi ích của mình như vậy Tuệ An vốn đã không thích, Tam tiểu thư phủ Vĩnh Xương hầu tên Lương Hồng Ngọc, Tuệ An nhưng lại biết nàng, là một cô nương đoan trang hiền thục, xinh đẹp dễ gần, Tuệ An có ấn tượng rất tốt đối với nàng, cho nên nghe vậy không nén nổi mà nhăn mày, rũ mắt che giấu vẻ chán ghét trong mắt.

Nếu như kiếp trước gặp phải tình huống này thì sợ là Tuệ An đã không nhịn được mở miệng mỉa mai Quan Lễ Ngạn vài câu, nhưng kiếp này Tuệ An không thể lỗ mãng như vậy nữa, trong lòng nàng rất rõ, làm khách trong phủ người ta lại làm mất hết mặt mũi người ta, sẽ chỉ khiến họ nói nàng không có giáo dục. Hơn nữa lúc này nếu nàng thật sự mỉa mai Quan Lễ Ngạn, chỉ e cũng sẽ đắc tội với tất cả các vị tiểu thư đang ngồi nơi đây.

“Cô nói ai? Lương Hồng Ngọc? Hừ, phụ thân nàng ta cùng lắm chỉ là một Vĩnh Xương hầu hữu danh vô thực, được cái phong hào, cả ngày tầm hoa vấn liễu, còn bao ca kỹ làm ngoại thất, mới vừa bị Ngự sử dâng tấu, không chừng một ngày nào đó phụ hoàng sẽ thu lại tước vị của Vĩnh Xương hầu. Lương Hồng Ngọc kia mặt mũi nhìn ngu ngơ như vậy, tính tình còn thật thà đến là nhàm chán, hơn cả một cái tượng gỗ, làm sao xứng đôi với Văn Hiên ca ca cho được.” Đoan Ninh công chúa nghe vậy bùng phát tính tình, tức giận nói, nói xong còn trừng mắt nhìn sang Quan Lễ Khiết, nói:

“Mẫu thân muội sao lại có thể chọn cho Văn Hiên ca ca một nhà không ra gì như vậy, nhắc tới mới nhớ Tứ thiếu gia quý phủ cũng đến tuổi nghị hôn rồi, không biết trong lòng mẫu thân muội đã chọn được ai như ý chưa?”

Tứ thiếu gia của Quan phủ chính là con trai của Thôi thị, Quan Lễ Trác, huynh trưởng cùng mẹ với Quan Lễ Khiết, Đoan Ninh nói câu này rõ ràng là ám chỉ Thôi thị muốn trải đường cho con trai, nên mới chèn ép con trai trưởng vợ cả Quan Nguyên Hạc, đặc biệt nghị hôn cho y một nhà không ra gì. Nàng nói trắng cả ra, chỉ kém không toạc hẳn móng heo nữa thôi.

Quan Lễ Khiết nghe vậy khuôn mặt khẽ biến sắc, không khí trong phòng cũng trầm xuống theo, lời này nếu không phải từ miệng Đoan Ninh công chúa, chỉ sợ Quan Lễ Khiết đã không nhịn được mà lật bàn rồi.

Thấy nàng nắm chặt hai tay, nhịn lại nhịn một hồi, mới nói: “Công chúa cứ nói đùa, ca ca ta năm nay mới mười lăm, ngay cả công danh cũng chưa có, nghị hôn thì vẫn còn sớm quá.”

Nàng vừa nói vừa nhìn về phía Quan Lễ Ngạn, lạnh lùng nói: “Ngũ muội đúng là buồn cười, hôm trước ở Quốc Tử Giám ta cùng Tam tiểu thư Khương gia vì một câu thơ nên có tranh chấp vài câu, lúc về nhà lại nói đôi câu với mẫu thân. Đại khái mẫu thân sợ ta bởi vậy đắc tội Tam tiểu thư Khương gia, mới hỏi Ngũ muội xem tính cách của Lương tiểu thư thế nào, chuyện đó cùng Tam ca thì có quan hệ gì ?! Ngũ muội ăn nói linh tinh như vậy, nếu để truyền tới tai người phủ Vĩnh Xương hầu, chẳng phải đã vô duyên vô cớ đắc tội nhà người ta sao?”

Quan Lễ Ngạn vốn muốn làm thân với Đoan Ninh công chúa, nên mới lấy chuyện hôn sự của Quan Nguyên Hạc ra nói, ai ngờ lại đắc tội Quan Lễ Khiết. Hiện giờ nắm quyền ở hậu viện Quan phủ chính là mẫu thân Thôi thị của Quan Lễ Khiết, một thứ nữ tam phòng nhỏ bé như nàng, có lý nào lại không sợ Thôi thị ghi hận, gấp rút kinh hoàng nói: “Tam tỷ đừng tức giận, việc này là ta nói đùa mà thôi, Đại bá mẫu luôn yêu thương Tam ca như thế, việc nghị hôn cho Tam ca, đương nhiên phải tìm nơi thế gia vọng tộc có danh tiếng, lại là cô nương hoạt bát hào phóng phải không nào.”

Nàng nói xong có ngụ ý đưa mắt nhìn Đoan Ninh công chúa, lời này của nàng đúng là một mũi xuyên trúng tim đen Đoan Ninh, Tuệ An chỉ thấy trên mặt Đoan Ninh tự dưng hồng lên một mảnh, khoát khoát tay nói: “Được rồi, nàng cũng chỉ thuận miệng nói. Việc này vừa nghe đã biết không thể tin được, làm gì có ai tưởng là thật chứ.” Ngoài miệng nói vậy, nhưng trong lòng Đoan Ninh lại thầm hạ quyết tâm, hồi cung nhất định phải đi cầu xin mẫu hậu lần nữa, để mẫu hậu nói với phụ hoàng sớm ngày tứ hôn mới được.

Đoan Ninh đã lên tiếng, Quan Lễ Khiết cũng không thể lấy việc này trách mắng Quan Lễ Ngạn thêm, vì vậy chỉ căm tức lườm nàng một cái, đúng lúc này nha hoàn dâng trà lên, nàng lập tức quay sang cười mời mọi người thưởng thức trà.

Trà kim qua này quả nhiên bất phàm, ngay cả một người không hiểu trà như Tuệ An cũng có thể nếm được một chút đặc biệt dễ uống, Quan Lễ Khiết là người lanh lợi, thoáng cái đã đem đề tài từ trà chuyển đến kiểu dáng y phục đang được ưa chuộng trong kinh, lại hàn huyên tới phấn son trang sức, không khí cũng bắt đầu náo nhiệt trở lại.

Tuệ An chẳng có hứng thú với mấy thứ đó, nói mấy câu phụ họa, sau đó cười đứng dậy, mượn cớ thay quần áo ra khỏi phòng, nhờ nha hoàn dẫn đến tịnh phòng nghỉ ngơi một lát, ngay cả tiểu nha hoàn kia cũng lảm nhảm nào là trang sức hình giọt lệ, phấn son của Bảo Chi trai khiến cho Tuệ An choáng váng, đành cười đuổi tiểu nha hoàn này đi, tự mình đi dạo một vòng trong viện.

Hạm Đạm viện của Quan Lễ Khiết cũng không lớn, Tuệ An chậm rãi đi dọc theo hàng mai hồng mới nở ven sân nhỏ, cũng không sợ lạc đường, thảnh thơi nhìn hoa ngắm cảnh, đồng thời nghĩ tới chuyện phục mã sách mà Đoan Ninh công chúa nói khi ở Phúc Đức viện.

Lại nói tổ tiên nhà nàng cũng là thương gia buôn ngựa, tổ phụ Thẩm Cường chính là dựa vào việc buôn bán ngựa tích góp được chút tiền của, về sau do loạn lạc khắp nơi, nên mới mang theo tài sản lên núi làm cướp, sau nữa lại có cơ duyên xảo hợp mang theo các huynh đệ cùng nhau tòng quân dần dần có được vị trí tướng quân.

Sở thích khác thì nàng không có, chỉ cực kỳ thích cưỡi ngựa bắn cung, lại càng yêu ngựa, đối với việc thuần ngựa cũng có chút tâm đắc. Lúc này triều đình muốn ban hành Phục mã sách, mà nàng vẫn còn nhớ trận dịch ngựa năm Hồng Đức thứ mười bốn kia, bỗng nhiên trong lòng Tuệ An lóe lên tâm tư muốn buôn bán ngựa.

Nàng vừa nghĩ việc này rất có khả năng thực hiện, vừa bước đi không nhìn phương hướng, đợi đến khi gặp phải một cổng vòm nhỏ, đoán là mấy người Quan Lễ Khiết chắc đã tán gẫu trà bánh gần xong, mới định xoay người trở về. Nhưng đúng lúc nàng muốn xoay người, lại nghe bên kia bức tường truyền đến một thanh âm uy nghiêm đầy giận dữ:

“Vô liêm sỉ! Mày đứng lại ngay cho tao!”

Tuệ An nghe vậy, sợ hết hồn, theo bản năng khẽ dịch người, dán sát vào bên tường, thầm kêu xui xẻo.

“Con cái bất hiếu, nhìn thấy cha không những không hành lễ, còn làm như không thấy, Quan Nguyên Hạc, mày giỏi lắm!”

Thanh âm kia lại vang lên, Tuệ An nghe vậy thì sững sờ, không ngờ người đang nói chuyện bên kia bức tường lại là phụ thân của Quan Nguyên Hạc, Nội các Đại học sĩ Quan Bạch Trạch, lần này Tuệ An càng không dám động đậy, nín thở dính chặt vào vách tường. Lại nghe bên kia truyền tới giọng nói lạnh lùng của Quan Nguyên Hạc, chỉ có hai chữ, không mang nửa phần kính trọng.

“Chuyện gì?”

“Tối nay mẫu thân con mở vài bàn tiệc ở Hiểu vườn, để con với vài vị huynh đệ cùng nhau tụ họp, coi như là đón gió tẩy trần cho con, đêm nay con…”

Bên kia trầm mặc hồi lâu, sau mới vang lên thanh âm vừa tức giận lại vừa cố ăn nói nhẹ nhàng của Quan Bạch Trạch, nhưng mà lời ông còn chưa nói hết, đã lần nữa bị Quan Nguyên Hạc không khách khí cắt đứt.

“Ta vừa hồi kinh, trong quân cũng không thiếu quân vụ cần làm, bên Hoàng thượng còn giao cho vài việc quan trọng phải xử lý gấp, chuyện tiệc tùng sau này hãy nói.”

Tiếng nói của Quan Nguyên Hạc rõ ràng xen lẫn qua loa cùng xa cách, Tuệ An nghe vậy cũng giật mình. Hay thật đấy, người này lại nói năng không chừa chút thể diện nào cho lão tử nhà y, dù thế nào Quan Bạch Trạch cũng là quan viên nhất phẩm, trên triều uy phong hiển hách, không ngờ ở nhà con trai lại dám chống đối ông như vậy, vẫn không biết là vì sao?

Xuất phát từ tính tò mò, Tuệ An khẽ thò đầu lén nhìn sang bên kia một cái, cách hai cây mai, đã thấy Quan Bạch Trạch cùng Quan Nguyên Hạc đang đứng tại con đường bên kia bức tường, Quan Nguyên Hạc quay lưng về phía bên này, mà Quan Bạch Trạch thì tức đến nỗi chòm râu run rẩy, vẻ mặt giận dữ trừng mắt nhìn y, lồng ngực phập phồng mãi mới giơ được ngón tay chỉ thẳng vào Quan Nguyên Hạc mắng:

“Giỏi, giỏi! Mày đúng là có tiền đồ! Mẫu thân mày tự mình chuẩn bị tiệc rượu, còn xin tao đích thân nói với mày, cho mày với huynh đệ trong nhà gặp gỡ giao lưu, mày lại dám lấy chuyện công sự ra để đối phó cho qua, sách thánh hiền mày đọc được đều vứt cho chó gặm rồi có phải không? Tao đây cũng muốn đi hỏi Thánh thượng một chút, rốt cuộc an bài cho mày bao nhiêu công sự, để cho mày gấp gáp đến nỗi ngay cả ăn một bữa cơm với huynh đệ nhà mình cũng không có thời gian như thế? Tao cũng muốn xem Thánh thượng có thể cho mày bao nhiêu ân sủng, dám ngỗ nghịch với cha mẹ cơ đấy!”

“Ngỗ nghịch cha mẹ? Ta chỉ biết là mẫu thân của ta đang nằm dưới lăng mộ Tây Sơn, đã ngủ được mười tám năm nay, ta chỉ biết thánh hiền có câu nuôi mà không dạy là do cha mẹ, cũng không biết hôm nay ta mà ngỗ nghịch thì ông muốn làm cái gì?”

Tuệ An cảm thấy giữa thanh âm của Quan Nguyên Hạc lộ ra một luồng sát khí, ở xa như vậy mà nàng cũng có thể cảm nhận được lệ khí nồng đậm tỏa ra từ bóng lưng thẳng tắp của y, nàng bị dọa đến biến sắc, không dám nhìn thêm vội vàng rụt đầu trở lại.

Bên kia Quan Nguyên Hạc dường như bị Quan Nguyên Hạc khiến cho tức tối không thốt nên lời, chỉ nghe được tiếng thở dốc phì phò, một hồi lâu mới truyền đến thanh âm cực kỳ giận dữ của Quan Bạch Trạch:

“Không biết đúng sai! Nghịch tử! Nghịch tử! Mày… Được lắm, tốt lắm! Là tao sai, không nên sinh ra một đứa súc sinh như mày mới phải!”

Sau đó truyền đến một loạt tiếng bước chân, là Quan Bạch Trạch phất tay bỏ đi, tiếng bước chân biến mất, trong không khí tĩnh mịch không một tiếng động, cũng không biết Quan Nguyên Hạc đang nghĩ gì, mà một chút động tĩnh cũng không có. Tuệ An lại không dám động đậy một phân, chỉ nhắm mắt chắp tay trước ngực thầm cầu nguyện Quan Nguyên Hạc sớm đi đi, nàng sẽ về Tùng Hương các, rồi đi từ biệt Quan lão thái quân trở về phủ Phượng Dương hầu là xong.

Ai ngờ đang lúc nàng cầu nguyện, lại nghe bên kia truyền đến một tiếng gầm lên:

“Lăn ra đây!”

“Lăn ra đây!”

Tuệ An giật mình sợ hãi, thầm kêu xong đời, nào dám thật sự đi ra ngoài, hai chân theo bản năng men theo vách tường nhanh như mèo chạy thẳng ra xa. Còn chưa chạy được mấy bước, đã nghe thêm một tiếng gầm nữa, lần này thanh âm ấy đã ở ngay phía sau của nàng.

“Đứng lại!”

Thanh âm này lạnh đến thấu xương, làm cho Tuệ An cảm thấy sau gáy buốt giá, cổ cũng giống như có gió lạnh cắt qua, trong lòng vẫn muốn chạy nhanh đi, nhưng hai chân bủn rủn cứ đông cứng tại chỗ không chịu nhúc nhích.

“Xem ra Thẩm tiểu thư có thói quen ra ngoài không mang đầu óc thì phải, dám làm chuyện vểnh tai nghe lén vô lễ bậc này cơ đấy.”

Tuệ An nghe vậy có phần không phục, rõ ràng là nàng tới trước, ai bảo hai cha con y đứng trong vườn cãi vã làm gì, còn quay ra oán trách khách khứa như nàng. Nào có cái lối đãi khách như vậy, nàng chưa nói cha con bọn họ quấy rầy sự thanh tĩnh của khách thì thôi, y còn xỉa xói nàng nghe lén nữa chứ.

Giận dữ xoay người, Tuệ An ngẩng đầu trừng mắt nhìn Quan Nguyên Hạc, giọng mỉa mai nói: “Thẩm Tuệ An ta sớm đã có danh lỗ mãng truyền khắp kinh thành thì không nói, chỉ là Quan Đại tướng quân xuất thân thế gia đầy bụng thi thư lễ nghĩa, còn là ái thần Hoàng thượng nể trọng, đáng ra nên lễ nghi quy củ đầy đủ, đạo hiếu tôn ti đúng mực mới phải, hôm nay nhưng lại để cho ta được mở rộng tầm mắt rồi sao. Ngỗ nghịch cha đẻ, bất kính kế mẫu, chậc chậc, nói ra không biết có ai tin không đây.”

Tuệ An vừa nói xong, đã thấy Quan Nguyên Hạc thay đổi sắc mặt, vẻ mặt thoáng cái âm lạnh xuống, đôi lông mày lạnh lùng khẽ nhếch, con ngươi đen không thấy đáy híp lại nhìn chằm chằm nàng, ánh mắt sắc bén, ánh nhìn tối tăm, có vẻ cực kỳ nguy hiểm. Cũng không biết đang suy nghĩ gì, chỉ không nói một lời nhìn chằm chằm nàng, hai tay nắm thành đấm thật chặt, trên trán nổi đầy gân xanh, tất cả đều cho thấy y đang nổi cơn thịnh nộ.

Tuệ An bị dọa đến nỗi chưa kịp nhận ra thì trên trán đã toát ra một tầng mồ hôi lạnh, vẫn cố ngẩng đầu dùng sức trợn mắt nhìn Quan Nguyên Hạc, vẻ mặt quật cường, ra vẻ cho dù thế nào cũng không nguyện mở miệng nói lời nịnh nọt y.

Đột nhiên nàng thấy hoa mắt, hoảng hốt nhìn Quan Nguyên Hạc giơ quyền đánh tới mặt mình, sau đó là một con gió lạnh đập thẳng vào mặt, dọa cho Tuệ An sợ hãi như con rùa đen ra sức rụt đầu rụt cổ lại, nhắm tịt mắt phó mặc cho ông trời. Thầm nghĩ, lần này khuôn mặt thật sự là nở hoa rồi.

Chỉ nghe “Rầm” một tiếng, một lực kinh người vút qua bên tai nàng, đập thẳng vào bức tường sau lưng. Nhất thời trong không khí yên ắng chỉ còn lại tiếng thở dốc của Quan Nguyên Hạc, Tuệ An bị dọa hai chân đã nhũn cả ra, miễn cưỡng dựa vào vách tường phía sau chống đỡ thân thể, nửa ngày mới chậm chạp hé mắt.

Vừa mở mắt thì thấy khuôn mặt tuấn tú của Quan Nguyên Hạc đã bình thường trở lại, chỉ nghiêng đầu nhắm chặt hai mắt, lông mày hơi nhíu, giữa hai hàng lông mày hiện lên một nếp nhăn rõ ràng.

Tuệ An nghiêng nghiêng đầu, nhìn quả đấm của y dừng ngay bên má phải nàng, trên đó từng giọt máu đang nhỏ xuống, vách tường xám trắng nhuốm màu đỏ tươi, e là đã bị thương vào mạch máu. Tuệ An cả kinh há hốc miệng, nhưng cũng không biết phải nói gì mới được.

Vừa rồi khuôn mặt còn quật cường không chịu thua kém, một lòng tức giận, lúc này thấy y như vậy tức thì lại trở nên ảo não, còn có phần cảm thấy áy náy cùng cuống cuồng không biết làm sao. Tuy nói là tự y làm mình bị thương, nhưng xét cho cùng cũng là tại nàng ăn nói lỗ mãng, mới khiến y bùng phát lửa giận như vậy.

Người này vốn dĩ không phải là kẻ biết thương hương tiếc ngọc, nàng chọc giận y, nhưng y dưới cơn thịnh nộ cũng không mảy may thương tổn đến nàng, điều này khiến cho Tuệ An cứ cảm thấy mình mới là người thiếu y. Thầm trách mình ban nãy không nên hành động theo cảm tính, người ta rõ ràng tâm tình không tốt, lại bị người ngoài chứng kiến những chuyện bí mật, không tức giận mới là lạ, nàng để cho y trào phúng thêm vài câu thì mất miếng thịt nào chắc.

Nhớ đến lời nói của Quan Nguyên Hạc vừa rồi, còn lúc ở Tùng Hương các Quan Lễ Ngạn có mơ hồ lộ ra giữa Quan Nguyên Hạc cùng mẹ kế Thôi thị có hiềm khích không nhỏ, chỉ sợ Quan Nguyên Hạc đối đãi với phụ thân như vậy cũng có nguyên nhân của nó. Lại nói tới Quan Nguyên Hạc bốn tuổi mất mẹ, tình cảm với phụ thân không tốt đẹp, cùng nàng đúng là đồng bệnh tương liên, mặt khác người này tuy tính tình lạnh nhạt còn làm việc chẳng nể mặt ai nhưng xem như cũng đã giúp đỡ mình vài lần, Tuệ An không khỏi có chút mềm lòng, nhẹ nhàng nói:

“Kỳ thật ta không phải cố tình nghe lén, là ta đến chỗ này trước. Ngài yên tâm, ta sẽ không nói lung tung gì đâu. Thật ra… Có nhà ai không có chuyện bí mật kia chứ, ngài cũng không cần cảm thấy mất mặt… Chuyện kia… Vừa rồi là ta không đúng, để ta xin lỗi ngài không được sao? Ngài… Máu còn chảy nữa, sợ là không tốt cho lắm, ta băng bó cho ngài trước nhé?”

Nàng nói xong thấy Quan Nguyên Hạc chỉ mở mắt ra, tĩnh lặng không gợn sóng nhìn nàng, cũng không tỏ ra phản đối, lúc này mới gấp rút lấy một chiếc khăn tay từ trong người lau đi những vệt máu trên tay Quan Nguyên Hạc rồi qua loa buộc lại.

Vừa rồi Quan phụ nói muốn đi hỏi Thánh thượng ân sủng đến mức nào mà để cho Quan Nguyên Hạc dám ngỗ nghịch lời của phụ thân, nghe ý tứ của Quan đại nhân dường như đúng là muốn đi tố cáo Quan Nguyên Hạc bất hiếu.

Tuệ An nghĩ tới người phụ thân kia của mình, trong lòng lúc nào cũng bày mưu tính kế đoạt hết tất cả của nữ nhi, đã cảm thấy không chừng Quan Bạch Trạch sẽ thật sự dâng tấu bẩm lên Thánh thượng, nếu như dính cái danh bất hiếu, mặc kệ Quan Nguyên Hạc có bao nhiêu công trạng, sẽ uổng công hết, chữ hiếu lớn hơn trời, chỉ sợ đến chức quan của y cũng không giữ được.

Vì vậy trong lòng không khỏi lo lắng, nhìn không được nhỏ nhẹ khuyên nhủ: “Đạo hiếu quan trọng nhất, cho dù ngài đối với Quan đại nhân có gì…bất mãn, nhưng ông vẫn là cha ruột ngài, ngoài mặt ngài nên kính trọng ông một chút, nếu không để cho người khác nhìn thấy, sẽ chỉ nói ngài bất hiếu mà thôi. Cho dù ngài có một vạn lý do chăng nữa thì cũng là vô lý. Ngài còn làm quan nữa, nếu bị chỉ trích bất hiếu, chẳng phải sẽ hủy luôn con đường tương lai? Còn nữa, kế mẫu sẽ chẳng bao giờ thực sự đối xử tốt với ngài, đây cũng là chuyện thường tình trên đời, theo ta thấy kế mẫu ngài tuy cũng có lòng riêng, nhưng bề ngoài không bạc đãi gì ngài, ngài kính bà tí xíu là có tiếng lành ngay, lại không mất miếng thịt nào. Ngài còn nói ta là kẻ hữu dũng vô mưu cơ đấy, ta thấy ngài cũng chẳng hơn ta được bao nhiêu đâu…Ít nhất ở trước mặt người khác ta cũng không bị bọn họ tóm được điểm yếu.” Tuệ An vừa nói vừa thoăn thoắt đưa tay quấn lại vết thương.

Quan Nguyên Hạc một mực im lặng không nói nhìn chằm chằm vào nàng, thấy Tuệ An dịu dàng băng bó miệng vết thương cho mình, dáng vẻ kia làm như sợ đau y không bằng, lại nghĩ tới vừa rồi vốn là mình trút giận sang người khác, hôm nay nếu không phải nàng, chỉ sợ đổi thành mấy cô nương nhát gan yểu điệu, e là đã sớm bị dọa đến hoa dung thất sắc, lệ rơi đầy mặt.

Nghĩ như vậy sắc mặt cũng hòa hoãn hơn nhiều, hai mày sít sao nhíu lại cũng khẽ giãn ra, trong lòng lửa giận ngút trời cũng chầm chậm bình tĩnh trở lại, vì vậy cũng rõ ràng cảm nhận được hơi thở của Tuệ An khi đang nói chuyện phả vào tay mình, không hiểu sao da thịt bỗng nhiên ngứa ngáy, sau đó ngay cả tim cũng ngứa ngáy theo.

Lại nói tới y tám tuổi đã rời nhà, ở bên ngoài xông pha bốn năm, sau thì vào quân doanh, tiếp xúc đều là đàn ông cao lớn thô kệch, dù hồi kinh cũng là vội vội vàng vàng, cả trong Kỳ Phong viện từ trước đến nay chỉ có gã sai vặt hầu hạ, so với con em quý tộc khác ngày ngày được nha hoàn hầu hạ bên người, ra vào chốn phong hoa, y căn bản không tiếp xúc nhiều với nữ tử.

Hơn nữa y cũng không thích người lạ đến gần, càng chưa bao giờ thân cận cùng nữ tử, lúc này thấy Tuệ An sắc mặt nghiêm túc một tay cầm lấy tay y, một tay linh hoạt quấn từng vòng khăn tay, lông mi rủ xuống trên khuôn mặt ửng đỏ tựa như cánh bướm nhẹ nhàng bay nhảy, không hiểu sao y lại cảm thấy không được tự nhiên. Giống như hàng mi rung rinh của nàng đã cọ tới tận tim y, khiến cho nơi nào đó trong tim ngứa ngáy không thôi.

Vì vậy y khẽ ho lên một tiếng, nghiêng đầu quay sang chỗ khác. Tuy là không nhìn Tuệ An, nhưng bên tai vẫn nghe được nàng nhỏ nhẹ khuyên lơi, nghe được nàng khuyên mình nên kính trọng phụ thân cùng kế mẫu hơn một chút, lại không khỏi phiền lòng. Nghe được Tuệ An nói mình chưa bao giờ để người ta nắm được yếu điểm, khóe miệng khẽ nhếch đầy mỉa mai, lạnh lùng nói:

“A? Lại không biết hôm đó ở Đoan môn suýt nữa véo nát eo của thứ muội là người nào?”

Tuệ An nghe vậy sững sờ, mặt ửng hồng lên, buông tay Quan Nguyên Hạc, ngẩng đầu thấy y mặc dù nói thì có vẻ mỉa mai nhưng ánh nhìn cũng không sắc bén như vừa rồi, chỉ hơi lộ vẻ trào phúng chăm chú nhìn mình, mặt của nàng lại bừng lên màu đỏ, cười xấu hổ nói: “Ha ha, ngài nhìn thấy rồi à…Không phải là do ta bị ép thôi sao.”

Quan Nguyên Hạc lại nhếch môi, hừ lạnh một tiếng, nói: “Tự cho là đúng.”

Dứt lời, cũng không chờ Tuệ An phản bác, đã xoay người sải bước mà đi.

Tuệ An sững sờ, ngẩng đầu nhìn theo, đã thấy bóng lưng cao lớn của Quan Nguyên Hạc sắp khuất sau cổng vòm, đang quay người bước ra ngoài, thân thể của y kiên định mà rắn chắc, mặt trời chiếu lên bức tường phản xạ vào người y, giấu nửa bên mặt y trong bóng tối, chẳng biết tại sao khiến cho người ta cảm thấy vẻ mặt kia lại lạnh lẽo cô đơn đến vậy.

Tuệ An trong lòng nghẹn úng, chỉ hận bản thân sao mà lắm chuyện, vô duyên vô cớ để cho người ta mắng mỏ. Càng tức Quan Nguyên Hạc không biết tốt xấu, không cảm kích thì thôi, còn dám mở miệng mỉa mai mình cơ đấy. Cứ tức giận nhìn chằm chằm vào cổng vòm đã không còn bóng người hồi lâu, sau mới dậm chân, xoay người bước nhanh đi về Tùng Hương các.

Về đến Tùng Hương các thì quả nhiên mấy người Đoan Ninh công chúa đã thưởng thức xong trà, đúng lúc có nha hoàn ở Phúc Đức viện đến bẩm, nói Thái công chúa chuẩn bị về cung nên gọi Đoan Ninh công chúa qua đó. Tuệ An lại cùng mọi người đến Hạm Đạm viện, đưa tiễn Thái công chúa, sau đó cũng cáo từ với Định Quốc phu nhân.

Lúc Tuệ An ngồi kiệu lần nữa ngắm cảnh trong Quan phủ, thì Phương mama đang nghiêng người ngồi trên ghế gấm, đối diện Tôn Tâm Từ mà dạy dỗ một tiểu thư khuê các thì phải có phong thái cử chỉ thế nào. Phương mama nhìn Tôn Tâm Từ, nói cực kỳ nghiêm túc, làm như một chút cũng không nhận ra nét mặt cau có cùng thái độ vô lễ của nàng.

“Là tiểu thư khuê các, ngồi có kiểu ngồi, đứng có kiểu đứng. Phải biết ánh mắt của người ngoài nhìn vào, chú ý đến đầu tiên chính là phong thái cử chỉ của cô nương, đứng ngồi đoan trang mới có thể khiến cho người ta không coi thường cô nương, còn sinh lòng nể phục. Bây giờ xin mời Nhị cô nương ngồi xuống cho lão nô nhìn một chút.”

Tôn Tâm Từ sao có thể bằng lòng để cho vú nuôi của Tuệ An giáo huấn cho được, mặc dù Đỗ Mỹ Kha đã nói Phương mama sẽ không dám khắt khe với nàng, nói nàng phải theo Phương mama học quy củ cho tốt, nhưng nàng vốn đã cắm sâu ý nghĩ Phương mama là theo lệnh Tuệ An đến hành hạ mình trong lòng, làm gì có chuyện nàng chịu nghe theo.

Ngày đó Thẩm Tuệ An âm thầm cấu véo nàng đau chết đi được, hôm nay Phương mama danh chính ngôn thuận đến dạy dỗ nàng có thể không ra sức chèn ép mình sao?

Tôn Tâm Từ nghĩ đến những chuyện này thì bùng phát cơn giận, lúc này nghe Phương mama bắt nàng phải ngồi, Tôn Tâm Từ bĩu môi xì một tiếng, thầm nghĩ ngồi thì ngồi, nàng đây cũng muốn xem bà già chết tiệt này có thể chỉnh nàng thế nào.

Nàng vừa nghĩ vậy, cũng nghiêm túc lắc eo nhỏ đi đến ghế bên cạnh, sau đó nàng cẩn thận ngẫm lại tư thế ngồi lúc bình thường của Đỗ Mỹ Kha, nâng mông cố ra vẻ phong lưu nghiêng người ngồi xuống ghế, cặp chân còn khẽ đung đưa, hai tay vung lên đặt trên đùi, tay phải tạo hình lan hoa chỉ, lưng thẳng lại lắc mông một cái, sung sướng nhướng mày nhìn Phương mama.

Nàng từng thấy qua mẫu thân ngồi như vậy, luôn cảm thấy rất là ưa nhìn, có ý tứ không nói ra được, nay bắt chước là để chọc tức Phương mama, tốt nhất có thể bà già quái dị này nhìn thấy mà tự hổ thẹn cuốn xéo nhanh đi!

Phương mama sao lại không biết tâm tư của Tôn Tâm Từ, bà đứng dậy bước từng bước nhỏ, không biết bà làm thế nào, cả người trở nên uyển chuyển lạ thường, rồi bà đi hai bước từ từ tựa nửa người vào chiếc ghế thái sư bên cạnh Tôn Tâm Từ, thu lại ánh mắt, cúi đầu nhìn xuống đất, một tay chống lấy trán, tay còn lại nhẹ nhàng đáp xuống đùi, chỉ lộ nửa mặt đối diện với Tôn Tâm Từ.

Tôn Tâm Từ kinh ngạc phát hiện tầm mắt của nàng không thể lấy ra khỏi người bà già Phương mama này, cứ cảm thấy tư thế kia của bà tản ra một hương vị mê người, cùng tư thế của mẫu thân hình như không khác biệt lắm. Nhưng mẫu thân nàng có tướng mạo thuộc đẳng cấp nào, Phương mama bất quá chỉ là một bà già đã bạc nửa đầu cơ mà!

Vậy nhưng không thể không thừa nhận tư thế của bà khiến cho người ta cảm thấy cực kỳ ưu nhã, cũng cực kỳ lười nhác, Tôn Tâm Từ hận đến cắn chặt môi dưới, càng cho rằng mình đang bị làm nhục, cảm giác hận ý mãnh liệt cùng xấu hổ xông thẳng lên đầu, nàng mạnh mẽ thu hồi ánh mắt, quay đầu không nhìn Phương mama thêm một lần nào nữa.

Hạ Nhi, Xuân Nhi đứng ở một bên nhìn thấy, cũng bị Phương mama làm cho ngạc nhiên, có thể nói các nàng đã ngày đêm bầu bạn với Phương mama, vẫn chỉ biết Phương mama ở trong cung từng là cung nữ đắc lực bên cạnh vị nương nương nào đó, về sau khi đến tuổi thì được chủ tử ân điển cho xuất cung gả đến nhà người, sau nữa bởi vì con trai cùng trượng phu chết trong một trận hỏa hoạn ngoài ý muốn, thế này mới vào Hầu phủ làm vú nuôi của Tuệ An.

Bình thường Phương mama chẳng có biểu hiện đặc biệt gì, các nàng lại chưa bao giờ biết bà còn có bản lĩnh bậc này! Chỉ có thể trợn mắt há miệng, vẻ mặt sùng bái.

Phương mama thấy đã dọa được Tôn Tâm Từ thu liễm, cũng đứng lên, nói: “Mời Nhị cô nương làm theo tư thế lão nô vừa ngồi một lần.”

Tôn Tâm Từ sao chịu nghe lời! Nếu thật làm theo bà, há không phải thừa nhận bản thân mình không bằng cả cái người đã bước một chân vào quan tài như bà già này sao!?

Trên mặt nàng không thể lưu thông máu mà đỏ bừng cả lên, gắt gao trừng Phương mama, thấy Phương mama cố chấp đứng trước mặt mình, Tôn Tâm Từ cho là bà muốn khiêu khích, ngáp một cái đứng dậy từ trên ghế, bướng bỉnh nói:

“Ta mệt rồi, phải về phòng nghỉ ngơi cái đã.” Nói xong đẩy Phương mama một cái thì sải bước ra khỏi phòng khách, tức tối chạy ra khỏi sân nhỏ.

Phương mama bị đẩy lùi lại hai bước thì có Xuân Nhi đưa tay đỡ bà, bà liếc mắt nhìn ra cửa viện, còn cả trên hòn non bộ bên ngoài tường viện đã thấy đầy bà tử nha hoàn đứng đó hóng chuyện, lại nhìn về phía bóng dáng giận dữ của Tôn Tâm Từ khẽ nhếch môi một cái.

Lại nói Tuệ An Tuệ An từ Quan phủ về phủ Phượng Dương hầu đã là giữa trưa, mặt trời lên đến đỉnh đầu, nàng mới vừa vào cửa, đã nghe một hồi ầm ĩ truyền đến từ phía Thu Lan viện, Tuệ An vẫn luôn lo lắng sẽ xảy ra chuyện, nghe vậy nhanh chóng chuyển bước hướng về Thu Lan viện.

Trên đường nhìn thấy nha hoàn Lưu Ly trong Bích Thủy viện của Phàn Chi đang vội vàng từ phía Thu Lan viện chạy tới, vẻ mặt không biết là đang tươi cười chế giễu ai, dường như không nhìn thấy thân ảnh của Tuệ An, chuẩn bị vòng qua khúc quanh hành lang đi về hướng Bích Thủy viện.

Đông Nhi gấp rút gọi nàng một tiếng, ngoắc tay ra hiệu Lưu Ly đi tới, hỏi: “Vội vội vàng vàng làm cái gì thế hả? Không nhìn thấy cô nương chúng ta sao?! Không có mắt à.”

Lưu Ly sợ hết hồn, vội cúi người hành lễ, sợ hãi nói: “Nô tỳ không phải cố ý, nô tỳ chỉ mãi nghĩ ngợi, thật sự không nhìn thấy cô nương, cô nương tha cho nô tỳ một lần đi.”

“Được rồi, còn không mau trả lời ta hỏi, đằng trước có chuyện gì?” Đông Nhi thấy nàng chỉ lo xin tội, trong lòng không vui, lại quát một tiếng.

Lúc này Lưu Ly mới vội nói: “Phương mama đang ở Thu Lan viện dạy quy củ cho Nhị cô nương, không biết sao Nhị cô nương bỗng nhiên nổi giận, tát Phương mama một bạt tai, còn nói…mắng Phương mama…chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng…Bây giờ lão gia cũng đã ở Thu Lan viện, đang khiển trách Nhị cô nương thì phải.”

Lưu Ly nói xong thấy Tuệ An biến sắc, gấp rút im bặt, phịch một tiếng quỳ xuống đất, không dám hé răng nữa.

Vừa nghe Phương mama bị tát, trong lòng Tuệ An không khỏi căm tức, cũng không thèm nhìn tới Lưu Ly, bước nhanh đến Thu Lan viện

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.