Màu Nắng Màu Mưa

Chương 7




Micheal Copperfield đẩy cánh cửa xoay đến phòng Lab của tập đoàn Lennox ra và chõ đầu vào trong. Căn phòng trống trơn. Hầu hết nhân viên đã về sớm, hắng hái về nhà và chuẩn bị cho buổi tiệc cocktail mà ông chủ của họ sẽ tổ chức vào buổi tối nay. Một buổi tiệc cocktail nơi Phó Giám Đốc Bộ Phận Thực Hành của Tập Đoàn Lennox sẽ được chỉ định và được vinh danh bởi đám đông xu nịnh những người có ảnh hướng lớn ở New York và bởi phương tiện truyền thông.

“Tristan?” ông gọi to.

Chẳng có câu trả lời. Cảm giác như một tên trộm, ông lẻn qua những dãy màn hình vi tính sáng choang, tìm kiếm nơi làm việc riêng của Tristan. Mặc cho tất cả những thành công mà Tristan đã đạt được trong giới kinh doanh, ông vẫn có vẻ thoái mái nhất trong phòng thí nghiệm nơi khoa học và kĩ thuật vi tính thường được sử dụng để tạo ra phép thần kì.

Vì cân nhắc đến sự tập trung của bạn mình nên ông không để tâm nhập mật mã dùng để đóng cánh cửa bí mật và ẩn phòng nghiên cứu cá nhân của anh ấy khỏi những đôi mắt tò mò.

Tristan đang cúi rạp người trên một miếng đệm trắng vô trùng, đang loay hoay viết nghuệch ngoạc những con số lên một miếng đệm màu vàng. Ông mặc một cái áo khoác dùng trong phòng thí nghiệm đã nhàu nhĩ và mái tóc rối bù trông cứ như ông đã cào một cái máy cắt cỏ qua đó. Ánh đèn huỳnh quang sáng chói làm nổi bật lên quầng thâm bên dưới mắt ông.

Khoanh hai tay lại, Copperfield dựa người vào khung cửa. “Từ lúc anh ngủ đến nay đã mấy ngày rồi?”

Tristan giật bắn người, rồi quay lại, nhìn ông qua gọng kính vàng mà ông ấy vẫn bướng bỉnh bám riết lấy. “Anh đã chợp mắt một chút…” Môi ông di chuyển khi ông lẳng lặng tính toán. “Từ Thứ Bảy, anh nghĩ thế.”

Cop thở dài. “Anh có biết mình không còn ở tuổi mười chín nữa không. Arian có biết anh đang dự định làm gì không?”

Cái nhún vai của bạn ông bẽn lẽn. “Anh nghĩ cô ấy đoán được.”

“Thế còn Tabitha?”

Tristan lắc đầu. “Anh không muốn con bé biết. Không muốn nó nuôi hy vọng. Anh không nghĩ nó có thể vượt qua được một sự thất vọng nữa.”

Copperfield cau mày. “Em đã nghĩ con bé đang khá hơn. Em đã thấy nó trong thang máy hôm qua và trông nó cực kỳ khỏe mạnh. Nó thậm chí còn có vẻ phấn khởi vì vị trí làm việc mới nữa.”

“Ồ, nó đang giả vờ can đảm đó thôi. Nó đã quyết định sẽ xây dựng một cuộc sống cho nó và đứa bé, đó là lí do anh đã trao cho nó chức Phó Giám Đốc Bộ Phận Thực Hạnh. Nhưng nụ cười của con bé vẫn chưa chạm đến mắt nó.” Ông kéo cặp kính xuống và bóp lên sống mũi, để lộ sự mệt mỏi của mình. “Biết bao nhiêu năm qua anh đã có thể cho con gái anh bất cứ điều gì nó muốn và nó chẳng bao giờ đòi hỏi. Giờ lần duy nhất mà con bé nhờ, anh lại không thể giúp nó.” Ông trượt cặp kính lên lại, đưa cho bạn ông một nụ cười ảm đạm. “Chuyện đó đang giết anh, Cop.”

Copperfield chống tay lên bậu cửa sổ ở bên hông phòng thí nghiệm. “Em cứ nghĩ còn có những thứ khác có nguy cơ gặp rủi ro hơn là thứ Tabitha muốn chứ. Chẳng phải anh đã thề sẽ không bao giờ đánh liều để cho công nghệ thiết lập bùa hộ mệnh rơi vào tay một tên khốn kiếp tàn bạo như Arthur Linnet(*Xem cuốn 1 Breath of magic*) sao?” Ông rùng mình, nhớ lại chuyến hành trình thoát chết trong gang tất về quá khứ nhiều năm trước. “Từ những gì anh kể với em về gã Brisbane, hắn có vẻ là một cặp sinh đôi ma quỷ với Arthur.”

“A, nhưng đó mới là nét đẹp của mẫu thiết kế mới của anh.” Tristan đi đến bàn phím gần nhất, một thoáng phấn khích lấp lánh trong mắt ông. Một đám dây kim loại rối chằng chịt không có kẻ hở được đặt trên tấm đệm phân tích bên cạnh máy tính. “Lần này anh không thử chế tạo một công cụ để hoàn thành ước nguyện nữa. Anh đang cố làm một bản sao của thứ mà Tabitha đã làm được nhờ sự cố vào cái đêm đó. Bằng cách xác định và đơn lập thành phần bên trong bùa hộ mệnh đã giúp cả Tabitha và Arian chọc thủng dòng thời gian, anh hy vọng sẽ tạo ra một đường dẫn cố định có thể dùng để đi và về xuyên thời gian.”

Copperfield thấy biết ơn vì ông đang ngồi. Tristan đã cố gắng thách đố cả khoa học và tự nhiên trước đây, nhưng lần này ông e là khát vọng liều lĩnh để giúp đứa con độc nhất của bạn ông cuối cùng đã đẩy ông ấy vượt quá giới hạn. Cop đằng hắng, nhưng không thể trục xuất hoàn toàn cục nghẹn hoài nghi bị kẹt ở đó. “Anh đang cố gắng xây dựng một đường hầm giữa các thế kỷ?”

“Chính xác là vậy đó! Một con đường hầm chỉ có thể được sử dụng và hoạt động từ địa điểm này.”

Cop nặn ra một nụ cười gượng ép. “Chà, chà, thế có tiện lợi cho lễ Giáng Sinh, lễ Tạ Ơn, và thôi nôi của đứa bé không chứ!”

Tristan liếc sang ông một cái nhìn vừa hối lỗi vừa chống đối. “Anh muốn con gái mình được hạnh phúc, nhưng anh không chắc mình có thể sẵn sàng để nó đi xa mãi mãi.” Ông trượt con chuột trên miếng đệm, tô đậm một chuỗi con số phức tạp trên màn hình đang sáng lóa. “Hôm nay anh đã làm được một cuộc chọc thủng thành công. Anh nghĩ anh đang nắm trong tay điểm mấu chốt rồi.”

Những ngón tay ông lướt trên bàn phím, nhập dãy số cuối cùng trong công thức của ông bằng một cử chỉ quả quyết. Thứ gì đó nổ đánh bốp và những tia lửa xẹt ra. Copperfield núp sau tấm phông, ông đã từng là nạn nhân của những chuyến bay thử nghiệm của Tristan và những vụ nổ vì đốt nung quá nhiều lần rồi.

Ông không dám hé mắt nhìn qua tấm la phông cho đến khi ông nghe Tristan lầm bầm câu nguyền rủa mà ít có người cha nào lại thốt ra. Bạn ông đang ngây người nhìn xuống một đống dây kim loại bị cháy sém trên miếng đệm phân tích, tóc bạn ông đang nhiễm một dòng điện tĩnh, gương mặt đen đúa vì muội than, và hai vai sụm xuống đầu hàng.

Cop dịu dàng nắm khuỷu tay ông và dẫn ông ra cửa. “Đi thôi, anh Lốp Bốp à, chúng ta phải cho anh đi chùi rửa và mặc bộ lễ phục vào. Buổi tiệc của con gái anh còn chưa tới một giờ nữa là bắt đầu và Arian sẽ không bao giờ tha thứ cho anh nếu anh bỏ lỡ nó.”

Khi Cop tắt đèn, chẳng có ai trong số họ nhận thấy họ đã để tấm la phông dẫn vào phòng nghiên cứu riêng hé mở.

Sven Nordgard đã là Thủ Trưởng cơ quan An Ninh trong Tập Đoàn Lennox gần hai mươi bốn năm nay.

Mặc dù ông chưa hoàn thành tâm nguyện được trở thành ngôi sao nổi tiếng của những bộ phim hành động và những cái gác xép TriBeCa của ông vẫn còn đầy rẫy những tấm bìa phóng to từ những tiểu thuyết lãng mạn mà ông đã rất tự hào làm người mẫu trong thời trai trẻ, người Na Uy cao chót vót này vẫn rất tự hào về công việc hiện tại của mình.

Vì công việc nên ông tình cờ đi tuần tra trên hành lang bên ngoài dãy phòng thí nghiệm Lennox nửa tiếng đồng hồ trước khi bữa tiệc trên tầng tám lăm diễn ra. Ông biết công việc này có thể được tin cậy giao cho những cấp dưới của ông, nhưng chính sách làm việc của ông là đi kiểm tra một lần cuối từ trên xuống dưới Tòa Cao Ốc trước khi bất cứ sự kiện lớn nào diễn ra. Trong tất cả những cuộc tuần tra nhiều không đếm xiết của ông, ông vẫn chưa tìm thấy bất cứ kẻ nào có khả năng ám sát, bắt cóc, hay khủng bố. Nhưng ông không chưa bao giờ ngừng hy vọng.

Khi ông đi ngang qua phòng thí nghiệm, ông nghe một cử động loáng thoáng đằng sau lưng. Ông quay phắt lại, rút khẩu súng khỏi bao dắt trên vai. Trái tim ông đập thình thịch vì thấp thỏm khi ông đẩy bật những cánh cửa phòng thí nghiệm ra và nhấn nút mật mã để mở khóa điện tử.

Khi tiếng bíp vang lên làm lộ chân tướng, Sven lao qua những cánh cửa đang đung đưa nhịp nhàng và khuỵu một đầu gối. Ông lướt khẩu súng dọc khắp chu vi căn phòng, hét to, “Đứng yên!”

Căn phòng thí nghiệm trống không, sàn phòng lát gạch xen kẽ sáng loáng phản chiếu ánh sáng đỏ mờ ảo của những ngọn đèn an ninh phía trên đầu.

Thất vọng, Sven thở dài và cất súng vào bao. Khi ông đi qua những cánh cửa đang xoay qua xoay lại, ông gần như có thể thề có thứ gì đó quệt vào chân ông. Mũi ông bắt đầu nhúc nhích. Sự nhúc nhích trở nên tệ hơn cho đến khi ông hắt hơi—một, hai, và, sau một khoảng ngừng ngắn ngủi, ba. Ông vội đi ra dãy hành lang và lo lắng ngoái nhìn lại, băn khoăn không biết con mèo của Tabitha có phải đã trốn khỏi tòa biệt thự trên tầng mái nữa rồi không. Ông chưa bao giờ ưa thích mèo, nhất là những con màu đen. Ông thà đương đầu với một tên khủng bố Uzi-toting còn hơn.

Ông đã nghĩ mình thấy một cái bóng mờ lẻn qua những cánh cửa xoay của phòng thí nghiệm, nhưng thay vì quay lại kiểm tra, ông tự thuyết phục mình đó chỉ là do hai mắt nhòe nước của ông bị quáng gà.

Lucy là một con mèo con bất hạnh.

Nó nhớ nhung cơn gió hè ấm áp thổi tốc bộ lông của nó và những con châu chấu béo, mọng mà nó thích nhai lạo xạo trong hàm răng nó. Nó nhớ những đứa trẻ vuốt ve lớp lông trên bụng nó và thủ thỉ khen nó là một con mèo đáng yêu. Và nó nhớ người đàn ông với hai bàn tay dịu dàng và giọng nói trầm ấm hòa âm một cách hoàn hảo với tiếng rừ rừ của nó.

Nhưng nó nhớ nhất là tiếng cười của cô chủ.

Thế là trong một lúc ngán ngẩm và công khai thách thức, nó đi lậu vé trên thang máy khi một cô hầu đi đến để sắp xếp giường ngủ buổi tối cho cô chủ nó. Thậm chí sự thấp thỏm chờ đợi cái đĩa trứng cá còn thừa mà cô chủ nó sẽ đem về sau buổi tiệc cũng không thể gạ nó ở lại trong cái căn hộ cô đơn với bầu không khí tái chế và những cửa sổ bị đóng kín.

Nó lẻn qua ông tóc vàng to xác, cười thầm vì chứng sợ nó của ông ta, và ủi đầu mở cánh cửa xoay dẫn vào phòng lab, hy vọng sẽ tìm thấy cảm hứng để quậy một chút. Tròng đen nó giãn ra, đôi mắt tinh nhạy theo bản năng thích nghi với ánh sáng mờ. Nó dùng vuốt mò trong hộp thiếc đựng rác, lật đổ cái thùng, nhưng cau có khi thấy ở bên trong trống trơn. Người trông nhà hăng hái khi chủ đi vắng và kẻ hủy diệt là nghề của nó.

Nó chạy thật nhanh vào căn phòng tiếp theo, meo meo đắc thắng khi nhác thấy một con chuột ngon lành đang treo lủng lẳng ở một ngăn trên cao. Nó cắn con chuột, lúc lắc đầu để giật con chuột kia. Con chuột dính-cứng-ngắt đó văng long lóc khỏi cái ngăn. Lucy nằm lên một tấm thảm cứng, chờ cho con chuột bỏ chạy để nó có thể nhảy phóc theo và đánh bại con chuột bằng bộ móng vuốt vĩ đại của nó.

Nhưng cái thứ khó chịu kia chỉ nằm ngửa ở đó, không chịu tham gia vào trò chơi. Nhăn mũi chế nhạo sự hèn nhát của con chuột, nó nhảy lên cái ngăn, đáp trên một bàn phím vi tính.

Một đống chữ số lộn xộn xuất hiện trên màn hình đang bật sáng. Lucy mất nhiều phút quơ quào những con số đó trước khi nhận ra chúng không thể chạm tới được.

Chán cái trò chơi này, nó vui vẻ nhảy qua bàn phím số, khoái chí vì tiếng móng nó gõ vào mấy phím số lách cách.

Cho đến khi một ánh chớp điện kêu xoèn xoẹt phóng trong không trung.

Lucy giật nhảy lên cả foot, bộ lông nó dựng đứng lên dài gấp đôi bình thường. Nó đã từng cảm thấy cảm giác kỳ dị này trước đây rồi, và nếu cô chủ của nó ở trong phòng lab vào lúc này, con mèo con sẽ trèo lên tay áo cô hay lên váy cô hay bất cứ cái gì có thể trèo lên được.

Nhưng lần này, Lucy chỉ có một mình. Khi một dải sương mù mờ ảo xuất hiện trong không trung, nó nhảy chéo rơi dọc qua cái ngăn, rít lên để giấu nỗi sợ của nó.

Màn sương mù dần dần kết thành một lỗ hổng trong căn phòng. Lucy chớp mắt kinh ngạc khi một cơn gió ấm lùa qua con đường hầm hình tròn, làm bầu không khí nhàm chán sực nức hương thơm mùa hè. Nó nhích tới gần, tính tò mò đã thắng thế nỗi sợ hãi.

Nó đang đứng ở mép hố khi một con bướm vàng bay dập dìu qua lổ hổng và đậu trên mũi nó. Nó giũ đầu và khi con bướm bay đi, biến mất vào trong khe nứt đó, nó nhảy phóc theo sau.

Colin nằm ngả lưng trong cánh đồng cỏ, ngây người nhìn lên bầu trời trong xanh. Không khí nóng và mù sương, nhưnh anh vẫn có thể cảm thấy đây là hơi thở cuối cùng của mùa hạ. Mùa thu đang đến, và sau mùa thu là mùa đông, khi một tấm mền tuyết chôn vùi cả cánh đồng này, đóng băng tất cả những nụ hoa, những cành cây, và những lá cỏ.

Anh đã khai quật hết đám cỏ trong mô đất này. Nhưng anh thề đây là nơi cuối cùng mà anh thấy Tabitha. Cô chỉ là một hình ảnh le lói trong không khí, nhưng thỉnh thoảng khi cơn gió thổi thật nhẹ và ngọt ngào, anh thề anh vẫn còn ngửi được chút hương của cô và cả cơ thể anh nhức nhối vì cần cô.

Anh biết khoảng thời gian nằm rũ trong cánh đồng này của anh phải sớm kết thúc. Người dân của anh đã nghĩ anh sắp phát điên vì cứ dựng lều ở cách xa nhà và thậm chí Arjon cũng đã bắt đầu quẳng cho anh những cái nhìn thương hại khi cậu ta đến thăm cùng với tin tức và những đồ tiếp tế. Nhưng Arjon không có quyền thương hại anh khi cậu ta có người phụ nữ cậu ta yêu trong vòng tay và trong giường cậu ta. Khi cô ấy đã trở thành vợ cậu ta và sẽ sinh con cho cậu ta trong những tháng giá lạnh khi mùa đông phủ tấm chăn khắt nghiệt của nó lên cánh đồng.

Thở dài, Colin ngồi lên. Có những lúc anh ước gì Brisbane đã giết anh vào cái lúc Tabitha biến mất. Nhưng Già Nana sẽ không bao giờ chịu đứng nhìn bất cứ ai ức hiếp bé cưng của bà. Thế là bà bẻ cổ Brisbane như bẻ cây, buột Colin phải tiếp tục sống, dù chẳng còn lí do cho anh tồn tại.

Colin lắc đầu để tỉnh táo. Đây không phải điều Tabitha muốn cho anh và anh biết điều đó. Cô sẽ không muốn anh lãng phí cả cuộc đời để trông ngóng một điều không bao giờ trở thành sự thật. Cô sẽ muốn anh đứng lên từ nơi này và mạnh mẽ bước về tương lai, để tìm kiếm chút hạnh phúc, thậm chí nó chỉ là một cái bóng so với niềm hạnh phúc mà họ có thể chia sẻ cùng nhau.

Anh chưa bao giờ thiếu can đảm, nhưng đứng lên khỏi mô đất đó là điều khó khăn nhất Ngài Colin vùng Ravenshaw từng làm. Anh biết anh đang nói lời vĩnh biệt với giấc mơ yêu quý nhất của anh. Anh sẽ không bao giờ còn được nếm đôi môi ngọt ngào của Tabitha lần nữa. Anh sẽ không bao giờ được ôm những đứa bé mắt xám của cô với mái tóc sáng ngời và nụ cười bẽn lẽn. Anh sẽ không bao giờ được ngắm màu bạc len lỏi vào mái tóc vàng của cô khi họ cùng già đi trong vòng tay nhau.

Khi anh đứng lên, ngọn gió lùa qua tóc anh và một con bướm vàng thật to bay ngang mũi anh. Chuyện đó thì cũng không lấy gì làm bực mình cho lắm nếu con mèo đang đuổi theo nó không nhảy lên bắp chân anh, xòe móng, và bắt đầu trèo lên chân anh.

Nhăn nhó vì đau, anh gỡ con mèo ra khỏi quần bó và đưa nó lên ngang mặt. “Lạy chúa Jesu, mày đang cố giết ta...?” Câu hỏi của anh chết lặng thành một tiếng thì thào ngạc nhiên. “Lucy phải không?”

Con mèo chào anh với một tiếng meo mừng rỡ.

Colin vuốt ve con mèo giữa đôi tai nhọn, băn khoăn không biết có phải nỗi thống khổ cuối cùng đã khiến anh phát điên. “Chuyện này là không thể,” anh thều thào. “Mày không thể ở đây được. Mày đã biến mất cùng với Tabtha rồi mà.”

Như để chế giễu sự hoài nghi ngơ ngác của anh, con mèo nhỏ trượt khỏi bàn tay tê dại của anh và chạy vụt qua cánh đồng. Sau một khắc do dự, Colin vội đi theo sau. Anh không muốn để mất dấu nó.

Nhưng khi con mèo biến mất vào một cái miệng hang toang hoác chưa hề xuất hiện ở đó chỉ mới vài giây trước, anh không còn lựa chọn nào khác.

Sven Nordgard bị cắn rứt lương tâm.

Ông chỉ mới tuần tra được đến tầng thứ năm mươi lăm của Tòa Cao Ốc trước khi đột ngột quay đằng sau và bước vào thanh máy gần nhất sẽ đưa ông xuống tầng ba mươi nơi căn phòng lab được đặt tại đó. Ông gần như chắc chắn ông đã thất bại trong việc đóng chắc cửa phòng lab khi ông bỏ chạy ra hành lang, vì cảnh tượng về những con mèo sừng sộ to như con báo nhảy chồm lên ông từ trong bóng tối, những cái móng vuốt sắc lẻm như dao đó xòe ra để xé toạc cổ họng ông.

Khi thang máy dừng lại, ông hít vào một hơi thở sâu, phồng khuôn ngực hình dáng như cái trống của mình to đến hết cỡ. Ông đã thề với chính mình là ông sẽ không bao giờ để nỗi sợ hãi hèn nhát vì mấy con mèo ngăn trở công việc của ông nữa. Những cánh cửa thang máy mở ra. Trước khi Sven có thể rút súng, người đàn ông đang đứng bên ngoài chĩa mũi gươm của hắn vào trái tim ông và gầm gừ, “Ngươi đã làm gì với người đàn bà của ta?”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.