Ly Hôn Rồi Anh Đừng Mơ Tưởng Tôi

Chương 6




Một vệt máu bắn vọt ra, dính vào bên má khuôn mặt trắng xanh của nó. Sái Thành cắn chặt răng, cầm cây kéo lên, nhắm đúng vị trí tim của thi thể, đâm liền mười mấy nhát. Máu tươi bắn văng đầy người, những giọt máu đỏ thuận theo bên tóc mai cậu bé lăn xuống, nhưng nó chẳng hề chớp mắt, để mặc cho những vết máu bắn đầy lên mặt, trông tựa như mới được vớt từ bể máu dưới địa ngục lên vậy.

Cảnh tượng ấy khiến Trần Quế Hương bị dọa chết khiếp, đến khóc cũng không thể khóc nổi. Lúc ấy chính bà ta cũng không hiểu vì sao cậu bé lại làm như vậy, vì sao lại hành hạ thi thể phụ thân mình thế. Tận đến khi cậu bé đứng lên, nắm chặt hung khí trong tay, quay lại nói một câu cuối cùng với bà ta:

“Mẹ, xin mẹ hãy bảo trọng.”

Nói xong, Sái Thành quay người xông ra khỏi cửa, chặn trước mặt những hàng xóm đang kêu gào kinh ngạc, rồi bỏ trốn biệt tăm với thân thể dính đầy máu.

Bóng nến bập bùng, soi sáng căn nhà nhỏ. Chỉ nghe tiếng Trần Quế Hương sùi sụt khóc, kể lại câu chuyện năm xưa với giọng ngắt quãng:

“... Khi ấy, những người hàng xóm đều kêu to: “Chết người rồi!”, trong lòng tôi rối như tơ vò, không biết nên làm thế nào cho phải. Tôi nghe thấy có người nói, phải đi bắt A Thành. Tôi muốn ngăn lại, tôi muốn nói rằng không phải, không phải nó giết người... Nhưng, tôi lại nghĩ đến Tiểu Liên, khi ấy nó mới ba tuổi, lại là con gái, nếu như tôi vào nhà lao rồi thì ai sẽ chăm nom cho nó... Cho nên, cho nên tôi không nói gì cả, cứ để cho A Thành phải làm tên hung thủ giết cha... Tôi, tôi quá ích kỷ! Tôi đúng chẳng phải là người, đã để cho một đứa bé phải mang tử tội đó! Tôi không phải là người!”

Vừa nói, bà ta vừa siết chặt hai nắm tay, đấm mạnh vào đầu mình. Hà Thừa Phong vội vàng đưa tay ngăn bà ta lại, chậm rãi khuyên bảo: “Trần đại nương, bà đừng tự trách mình thái quá. Cái chết của Sái Đại Tráng chỉ là do bà vô tình gây ra. Còn hành động của Sái Thành cũng là sự lựa chọn sau khi cậu ta đã suy nghĩ kỹ càng.”

Nói đến đó, Hà Thừa Phong không khỏi thở dài. Anh ta bỗng nhiên nhớ đến trong địa lao, chàng trai gầy gò xanh xao ấy, bất luận bị cai ngục tra tấn thế nào, bất luận bị người khác mắng chửi là kẻ “cầm thú giết cha”, là “táng tận lương tâm” ra sao, đều không nói một lời, trước sau không biện bác nửa câu. Trong khi năm xưa, lúc anh ta vì bảo vệ mẹ kế và tiểu muội, khảng khái quyết định gánh lấy tội danh “giết cha”, chẳng qua cũng mới chỉ là một cậu bé mười ba tuổi mà thôi.

“A Thành không phải con tôi rứt ruột đẻ ra, nhưng với mẹ con tôi lại vô cùng tốt, tôi thì lại... tôi thì lại... Mấy năm nay, không có ngày nào tôi được ngủ yên. Cứ vừa nhắm mắt là tôi lại nghĩ đến hình ảnh A Thành toàn thân đầy máu, chạy ra khỏi nhà... Nó còn bé như thế mà mang tội danh ấy trên người, ngài bảo nó sống làm sao, mà lại có thể trốn được đi đâu...”

Trần Quế Hương đau đớn vừa khóc lóc vừa nói mãi không thôi. Bỗng nhiên bà ta quỳ sụp xuống bên cạnh, lại khấu đầu van lạy Hà Thừa Phong: “Quan gia, quan gia! Tôi cầu xin ngài, cầu xin ngài hãy cứu A Thành! Giết người là tôi, đáng chém đầu là tôi! Ngài hãy bắt tôi đi chém đầu, mà tha cho A Thành. Tôi cầu xin ngài! Cầu xin ngài!”

“Trần đại nương! Bà đừng lo!” Hà Thừa Phong vội đỡ bà ta dậy, trầm giọng nói. “Chuyện này ta nhất định sẽ tra xét rõ ràng. Nếu như Sái Thành chẳng phải là hung thủ, ta nhất định sẽ trả lại sự trong sạch cho anh ta!”

Nói xong, Hà Thừa Phong đứng dậy từ biệt Trần Quế Hương. Anh ta bước nhanh ra ngoài đầu thôn, nhảy lên mình ngựa, vung roi phóng nhanh.

Người đàn bà họ Trần đã rất thật tình, không hề nói dối. Nếu thực như lời bà ta nói thì Sái Thành kia chẳng những không phải là kẻ ác đồ táng tâm điên cuồng, mà ngược lại chính là đứa con có tình có nghĩa. Nhưng sau đó anh ta gia nhập Kim Thạch Sách môn, gian dâm sư muội, giết hại ân sư, thì chuyện ấy là như thế nào? Là anh ta trải qua nhiều hoạn nạn, nên tính cách đã thay đổi, hay là vì ẩn tình gì trong đó? Lại còn con mãng xà ấy, sao lại trở nên như hình với bóng không rời Sái Thành, khiến cho anh ta bị mọi người gọi là “xà yêu nhân” như vậy? Mà Sái Thành từ khi bị bắt cho đến lúc điểm chỉ vào bản tội trạng, sao lại lặng im không nói, chưa từng biện giải nửa lời cho mình?

Nghi vấn lại nối nhau xuất hiện, Hà Thừa Phong chỉ thấy lớp lớp mây mù. Anh ta quát to một tiếng “Đi!”, rồi vung roi phi nhanh, suốt đêm chạy thẳng tới Kim Thạch Sách môn.

Kim Thạch Sách môn tọa lạc trên dãy núi Thương Tế, nằm ở phía tây bắc Trung Nguyên, cách thôn Thành Bình hơn sáu trăm dặm. Con đường ấy người bình thường phải đi mất năm, sáu ngày. Nghĩ đến Sái Thành hai ngày sau sẽ bị xử trảm ở ngoài của nam rồi, Hà Thừa Phong không dám chậm trễ giây phút nào, thúc ngựa chạy gấp. Con ngựa kiệt sức thổ huyết, ngã xuống đất không dậy nổi, Hà Thừa Phong liền thi triển công phu khinh công thượng thừa, đạp gió đi nhanh. Cứ như vậy không nghỉ, không ngủ, đi hơn một ngày, cuối cùng đã đến được núi Thương Tế.

Bên ngoài sơn môn, có hai đệ tử của Kim Thạch Sách môn đang canh gác. Thấy có người lạ đến, người đứng bên trái tiến lên một bước, đưa tay chặn trước bậc lên xuống, nói: “Huynh đài xin dừng bước. Không biết huynh đài lên Kim Thạch Sách môn chúng ta có việc gì?”

Hà Thừa Phong rút tấm lệnh bài bên lưng ra, giơ cho họ xem, rồi nói lớn: “Tại hạ là Hà Thừa Phong ở Tam Pháp ty, hôm nay đến đây để điều tra nguyên nhân cái chết của chưởng môn nhân tiền nhiệm Kim Hồng Quang của quý môn phái. Phiền hai vị huynh đệ cho phép.”

Nghe Hà Thừa Phong nhắc đến cái chết của Kim Hồng Quang, tên đệ tử bên phải còn lại giận dữ nói: “Nguyên nhân cái chết của sư tôn đã rõ rành rành là do tên tiểu súc sinh Sái Thành hạ độc thủ! Sư tôn đối với hắn ta đâu có bạc bẽo gì, mà cuối cùng hắn lại lấy oán báo ơn, làm nhục sư muội, còn để con yêu xà ấy quấn chết sư phụ! Đúng là không bằng loài cầm thú, toàn thể trên dưới Kim Thạch Sách môn chúng ta, chẳng ai không muốn băm vằm hắn thành trăm ngàn mảnh đem cho chó ăn!”

Thấy tên đệ tử ấy đầy bụng căm tức, nói rõ ràng ra như vậy, Hà Thừa Phong nhíu mày, thầm suy nghĩ: Kim Hồng Quang đối xử rất tốt với Sái Thành, trong khi như lời lão bà và Trần Quế Hương nói thì Sái Thành là người biết mang ơn tất sẽ báo đáp, tuyệt không phải loại người vong ân bội nghĩa, nếu không phải vậy thì nhất định anh ta đã không chịu tội thay cho mẹ kế như thế. Làm sao chỉ trong vòng mấy năm trời ngắn ngủi lại thay đổi tính tình như vậy, phạm vào những tội gian dâm, giết thầy tày đình ấy? Trong chuyện này tất có duyên do gì.

Nghĩ đến đó, Hà Thừa Phong chắp tay nói: “Hai vị huynh đệ, Hà mỗ đến đây chính là để tra rõ chân tướng, xin các vị cho phép được tiện nghi.”

Tên đệ tử đứng bên trái vội chắp tay đáp lễ. “Hóa ra là thần bổ Hà đại nhân, tại hạ thất kính. Xin ngài hãy đợi ở đây một chút, tại hạ sẽ đi bẩm rõ với thiếu chủ, xem thiếu chủ có rảnh không.”

Nói xong, tên đệ tử ấy lập tức quay người đi theo bậc đá lên trên. Hà Thừa Phong ngẩng đầu nhìn. Tên láu cá! Lối bậc đá dài liên miên không dứt, thông tận lên đến đỉnh núi, nếu như đợi hắn ta vừa đi vừa về, bẩm báo đầu đuôi thì biết phải đợi đến bao giờ? Hà Thừa Phong nhíu mày, rồi lập tức vòng tay nói lớn:

“Nhân mạng quan trọng, một khắc cũng không chậm trễ được. Xin đắc tội hai vị!”

Lời chưa dứt, Hà Thừa Phong lập tức nhún chân đề khí, tung mình nhảy lên. Hai tên đệ tử ấy nào có thể ngờ rằng Hà Thừa Phong lại bỗng nhiên làm bừa, lặng người đi giây lát rồi sau đó mới cùng đề khí nhảy lên, rút cây roi bên lưng ra, vung roi như xé bầu không, định ngăn đường Hà Thừa Phong lại. Hà Thừa Phong thân hình như con rồng bay lượn, vút lên không, đạp liền mấy bước, tiện tay bẻ luôn một cành cây bên đường, làm thành thanh kiếm, lật cổ tay bên phải, đánh vào bả vai một tên đệ tử. Tên đệ tử ấy nghiêng người muốn tránh, nhưng không thể nhanh bằng kiếm chiêu cấp tập của Hà Thừa Phong, lập tức bị đánh trúng huyệt khớp vai, khiến cây roi dài tuột ngay khỏi tay.

Tên đệ tử kia thấy vậy, tay phải vung roi chặn đánh, đồng thời đưa tay áo trái lên, từ trong ống áo bắn ra mấy mũi ám khí bằng đá dồn dập tấn công về phía Hà Thừa Phong. Hà Thừa Phong đưa cánh tay phải xuống, nhặt lấy cây roi bị rơi dưới đất, xoay cổ tay múa tít cây roi dài dày kín đến gió không lọt, gạt bay hết những mũi ám khí bắn lại. Chỉ nghe những tiếng nổ ầm ầm, đá vụn bắn tung tóe, hai tên đệ tử hốt hoảng đưa tay lên che mắt, đợi ám khí nổ hết mới dám nhìn lại phía Hà Thừa Phong, thì đã không còn thấy bóng dáng anh ta đâu nữa. Chỉ nghe trên con đường núi từ phía xa xa, vọng lại tiếng nói vang rõ của Hà Thừa Phong:

“Xin đắc tội với hai vị, ngày khác Hà mỗ sẽ quay lại tạ lỗi.”

Vượt qua sơn môn, Hà Thừa Phong đề khí phóng đi thật nhanh, cơ hồ đạp gió mà đi, chân không chạm đất. Chạy độ nửa tuần nhang, Hà Thừa Phong đã lên đến đỉnh núi Thương Tế, trông thấy các tòa lầu gác của Kim Thạch Sách môn, cùng các môn nhân đang luyện võ trên sân tập. Tình thế cấp bách, Hà Thừa Phong không kịp chào hỏi, lập tức lướt qua trên không, xông thẳng vào chính điện. Các đệ tử đang luyện tập trên sân trông thấy một bóng đen chớp mắt vút qua, cho rằng có kẻ ác tặc xông vào làm loạn, lũ lượt truy kích chặn đánh. Hà Thừa Phong cũng không dừng lại giải thích, vẫn dùng cành cây khi nãy đánh lui những đệ tử của Kim Thạch Sách môn xung quanh, đến khi xông vào được đại điện, gặp được chưởng môn nhân rồi, Hà Thừa Phong mới vứt cành cây đi, lấy lệnh bài bên lưng ra, nói to:

“Tại hạ Hà Thừa Phong ở Tam Pháp ty, vì điều tra mệnh án, tình thế khẩn cấp, mới xông vào quý môn phái, mong chưởng môn lượng thứ.”

Người đang đứng trên sảnh đường chính là vị thiếu chủ hôm trước chạy đến bến đò Thanh Sơn đòi lấy mạng Sái Thành - Kim Bộ Võ. Trông thấy Hà Thừa Phong, y chợt giật mình, rồi lập tức xua tay, ra lệnh cho những đệ tử đuổi theo vào đến chính điện lui hết cả ra, rồi quay sang Hà Thừa Phong, chắp tay nói: “Hà đại nhân, đã lâu không gặp, xin đa tạ ngài lần trước đã ra tay tương trợ, bắt giúp tên tiểu súc sinh Sái Thành.”

“Thực không dám giấu.” Hà Thừa Phong cũng chắp tay đáp lễ. “Kim chưởng môn, Hà mỗ lần này chính là vì vụ mệnh án của lệnh tôn mà đến đây. Theo như thiển kiến của tại hạ, trong chuyện này e còn có nội tình khác.”

Kim Bộ Võ vốn đang rất khách sáo, nghe những lời ấy thì giận dữ vung tay áo, lập tức trở mặt nói: “Đại nhân sao lại nói những câu như thế? Còn có nội tình gì ở đây nữa? Tên tiểu súc sinh ấy lòng lang dạ sói, vong ân phụ nghĩa, tất cả trên dưới trong môn phái ta, chẳng ai không biết, chẳng ai không hiểu! Hà đại nhân ngài như vậy là có ý gì? Muốn cứu tội cho tên tiểu súc sinh kia ư?”

“Kim chưởng môn, xin ngài hãy bình tĩnh.” Hà Thừa Phong chậm rãi nói. “Hà mỗ không có ý nghi ngờ mọi người trong quý môn phái, chỉ vì mạng người là trọng, cẩn thận vẫn hơn. Hơn nữa, điều tra rõ được chân tướng chỉ là để khuyến thiện trừng ác, trả lại công bằng cho người đã khuất, an ủi linh hồn của lệnh tôn ở trên trời, đúng vậy không?”

Thấy Kim Bộ Võ vẻ mặt đã hơi dãn ra, Hà Thừa Phong tiếp tục nói: “Nếu như Sái Thành đúng là hung thủ thực sự, nha môn tất sẽ tự trừng trị hắn theo pháp luật, chém đầu thị chúng. Nhưng nếu như sự việc có duyên do bởi nội tình khác, thì việc xét xử bừa há chẳng khiến cho lệnh tôn phải hàm oan mà không sao nói ra được ư? Mong chưởng môn lượng cả bao dung, chỉ giáo cho.”

Nghe lời Hà Thừa Phong nói, Kim Bộ Võ hít sâu một hơi, cố nén giận rồi mới bảo: “Đã nói cả rồi, ngài còn muốn hỏi gì nữa? Ta biết gì sẽ nói hết, cũng coi như tạ ơn ngài đã ra tay tương trợ.”

“Đa tạ!” Hà Thừa Phong chắp tay đáp lễ, rồi liền hỏi: “Trong hồ sơ nói, năm Sái Thành mười bốn tuổi được lệnh tôn thu nạp vào Kim Thạch Sách môn, duyên do vì sao, chưởng môn đã từng được nghe nói chưa?”

Kim Bộ Võ đáp: “Đúng vậy, đó là chuyện của mười năm về trước. Ta từng nghe phụ thân nói rằng, ông ấy đi săn ở sau núi, vào đến trong rừng rậm thì bắt gặp một thiếu niên áo quần rách rưới, bên người có một con mãng xà cuốn mình nằm. Phụ thân ta cho rằng con mãng xà ấy sắp ăn thịt đứa bé, bèn lắp tên kéo cung, chực bắn chết con rắn lớn. Ai ngờ, thiếu niên ấy nghe thấy tiếng động, bèn dang hai tay ra, ý muốn chắn mũi tên cho con rắn... Mẹ kiếp, ta từ đầu đã nghĩ ngay, kẻ làm bạn với rắn chẳng phải yêu cũng là quái! Tên tiểu tử ấy chính là tà ma, đáng tiếc là phụ thân đã dẫn sói vào nhà, ta cũng bị hắn lừa dối bao nhiêu năm!”

Nói được nửa chừng, Kim Bộ Võ lại giận dữ, vung tay đánh một chưởng, làm gãy đôi tay vịn chiếc ghế tựa bằng gỗ nam mộc. Thấy y mặt đầy tức giận, Hà Thừa Phong cũng không hỏi thêm nữa, chỉ thầm nghĩ: Kim Bộ Võ nói là gần mười năm trước, tức là sau khi Sái Đại Tráng chết không lâu. Chắc hẳn Sái Thành vì trốn sai dịch lùng bắt, cho nên đã chạy một mạch vào chốn thâm sơn. Khi ấy anh ta còn là một đứa trẻ, một thân một mình đi hơn sáu trăm dặm, trốn vào dãy núi Thương Tế, chắc chắn là vô cùng đói rét, khổ sở. Còn con mãng xà kia, tuy không biết là vì lý do gì mà hội hợp với anh ta, kết làm người bạn rắn của Sái Thành, và được anh ta thuần phục, nhưng điều ấy chính như phỏng đoán của Hà Thừa Phong từ đầu: Sái Thành tuyệt đối không phải là kẻ bất tín bội nghĩa - ngay với một con rắn giúp đỡ mình, Sái Thành cũng sẵn sàng liều thân cứu mạng, huống chi là người?

Nhưng Kim Bộ Võ kia thì càng nói càng giận, y uất ức đứng lên, hầm hầm đi đi lại lại trên chính điện, nhưng vẫn không nguôi được cơn giận trong lòng, không kìm được vung mạnh tay áo dài, khiến bộ ấm chén uống trà trên bàn bị quét văng hết xuống đất vỡ tan tành. Thấy y tâm tình bị kích động, khó mà nguôi giận, Hà Thừa Phong cũng đoán được bảy, tám phần lý do: Năm xưa khi Sái Thành gia nhập Kim Thạch Sách môn, thì Kim Bộ Võ cũng chỉ hơn anh ta bốn, năm tuổi. Hai người tuy là sư huynh đệ, nhưng cũng có tình nghĩa như anh em ruột, nếu không làm sao Kim Bộ Võ lại nói ra những câu như “bị hắn lừa bao nhiêu năm”. Từ huynh đệ tin cậy lại thành ra hung thủ làm nhục tiểu muội, sát hại phụ thân, chẳng trách Kim Bộ Võ chỉ hận không thể đem Sái Thành băm vằm thành trăm ngàn mảnh.

Đương nhiên, những suy đoán ấy, Hà Thừa Phong không tiện nói rõ ra, mà chỉ có thể lựa ý thăm dò, bèn hỏi tiếp: “Nói như vậy thì là, lệnh tôn trông thấy Sái Thành, thấy anh ta đáng thương, nên đã thu nhận làm đồ đệ?”

“Không!” Kim Bộ Võ tức giận nói. “Phụ thân ta từng nói, khi đó ông trông thấy hắn đứng chắn mũi tên cho mãng xà thì đã tấm tắc khen ngợi, bèn hỏi hắn có bằng lòng bỏ rắn đi cùng mình không, nhưng Sái Thành lắc đầu không nghe. Mấy tháng sau đó, trời đổ tuyết lớn, phụ thân ta nhớ đến hắn, mới lên núi tìm xem. Mẹ kiếp, phụ thân ta đúng là thông minh cả đời mà hồ đồ một lúc, đã bị tên súc sinh ấy mê hoặc, dẫn sói về nhà, đến nỗi bị hắn làm hại!”

Mười năm trước, sau dãy núi Thương Tế.

Khi Kim Hồng Quang lần đầu gặp Sái Thành thì còn đương tiết cuối xuân cỏ xanh oanh liệng. Đang đi săn trong rừng một mình, chợt ông nghe thấy trong khu rừng rậm phía trước có tiếng động lạ. Kim Hồng Quang vòng qua mấy bụi rậm, vạch những cành cây rậm rạp ra, thì chỉ thấy dưới tán lá trước mắt có một con mãng xà lớn đang cuộn mình nằm, bên cạnh nó là một thiếu niên đang say ngủ.

Kim Hồng Quang thầm kinh hãi, vội giương cung, lắp tên, định bụng bắn một mũi giết chết con mãng xà, cứu mạng cậu bé kia. Đúng lúc ấy, tựa hồ phát hiện ra tiếng động lạ, con mãng xà bỗng nhiên ngóc cao đầu dậy, hai con mắt vàng chuyển động, chằm chằm nhìn thẳng vào Kim Hồng Quang. Con rắn di chuyển thân mình nên đã làm động tới thiếu niên, đánh thức cậu bé dậy. Thiếu niên lập tức chống tay ngồi lên, lơ mơ dụi mắt, rồi làu bàu nói nhỏ: “Hắc Tử, sao thế?”

Cậu bé mắt nhắm mắt mở nhìn ra thì bắt gặp Kim Hồng Quang. Kim Hồng Quang đưa mắt ra hiệu cho cậu ta không được động đậy, đồng thời ông từ từ kéo căng dây cung, nheo mắt nhắm thẳng vào đầu rắn, cây cung đã kéo căng như trăng đầy...

“Không!” Thiếu niên bỗng nhiên phản ứng. Cậu ta hốt hoảng đứng dậy, giơ ngang hai tay, chắn cho con mãng xà phía sau lưng mình.

Thấy cậu bé đứng dậy chặn mũi tên, Kim Hồng Quang không dám vọng động làm bừa, chỉ chau mày nhắc nhở: “Cậu bé, cậu mau tránh ra!”

“Không!” Thiếu niên một mực lắc đầu, đem thân hình gầy gò yếu ớt của mình ra để bảo vệ cho con mãng xà, khẩn khoản nói: “Đại thúc, xin thúc chớ bắn nó, nó là bạn của cháu.”

“Nói bậy! Mãng xà làm sao là bạn với người được, nhóc con cậu mau tránh ra, cẩn thận không nó ăn thịt cậu đấy!”

Trước câu mắng mỏ của Kim Hồng Quang, thiếu niên ấy vẫn giữ thái độ kiên quyết, nhất định bảo vệ cho mãng xà. Còn con mãng xà thì di chuyển thân mình, ngóc đầu lên bờ vai gầy gò của cậu bé. Nó nhấc cao đầu lưỡi thè ra thụt vào, cảnh tượng vô cùng đáng sợ, nhưng lại không có vẻ như muốn giết chết cậu ta.

Người làm bạn với rắn, chuyện trước nay chưa thấy bao giờ. Thấy thiếu niên nhất quyết ngăn cản, Kim Hồng Quang tuy chưa buông hẳn cung tên, nhưng đã dần dần thả lỏng bớt lực, cho dây cung trở lại bình thường, rồi trầm giọng khuyên bảo: “Rắn là loài máu lạnh, càng không thể hiểu được ý người. Tuy trước mắt nó chưa làm hại gì cậu, nhưng nếu có một ngày nó đói không kiếm được gì ăn, thì nó sẽ nuốt cậu vào bụng. Cậu bé, cậu hãy nghe ta, cùng theo ta đi thôi.”

“Đại thúc, đa tạ lòng tốt của thúc.” Thiếu niên chắp tay quay về phía Kim Hồng Quang cúi mình thi lễ, rồi cậu ta đứng thẳng người dậy, vừa vuốt nhẹ lên người mãng xà vừa chậm rãi nói: “Nhưng làm người phải giữ lấy chữ “thành thực”. Ơn một giọt nước, phải lấy suối thác báo đáp lại. Hắc Tử có ơn cứu mệnh với cháu, chỉ cần nó không bỏ cháu đi, thì cháu tuyệt đối không bỏ nó. Dù cho có một ngày nào đó, nó ăn thịt cháu đi nữa, cháu cũng tuyệt nhiên không oán trách nửa lời.”

Câu nói của cậu bé khiến Kim Hồng Quang phải chú ý nhìn khắp một lượt cậu ta. Thấy cậu ta tâm ý đã quyết, ông cũng không khuyên giải thêm nữa, chỉ buông cung tên, chắp tay hướng về phía cậu ta, nói:

“Tiểu huynh đệ, nếu đã như vậy, cậu hãy làm theo ý mình. Bảo trọng!”

Nói xong, Kim Hồng Quang nhấc cung tên, quay lưng đi, để lại cậu bé với con mãng xà làm bạn giữa nơi thâm sơn cùng cốc

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.