Linh Sơn

Chương 12




Ngôi nhà nhỏ dãi dầm sương gió nắm phía sau một hàng rào thép gai siêu vẹo. Lá thông rải đầy mái thiếc, và bốn cây cột như chân nến mảnh khảnh chống đỡ mái hiên chật hẹp. Lớp sơn một thời là màu trắng đã trở thành xám xịt, và cửa chớp đã phai thành màu xanh xỉn.

“Bác sống ở đây có một mình à?” Riley hỏi.

“Chỉ mới vài tháng thôi,” April trả lời. “Bác có một căn hộ cao cấp ở L.A.”

Thấy chiếc Saab bạc mang biển số California đang đậu trong bóng râm bên hông nhà, Blue kết luận stylist đúng là kiếm bộn.

“Buổi tối bác không sợ à?” Riley hỏi. “Nhỡ có tên bắt cóc hay giết người hàng loạt nào lăm le tấn công bác thì sao?”

April dẫn họ lên bậc thềm gỗ kẽo kẹt. “Trên đời có đủ những chuyện thực để lo rồi. Khả năng có một kẻ giết người hàng loạt lần đến nơi đây là hơi hiếm.”

Cánh cửa kính đã lỏng ra khỏi khung cửa. April không khóa cửa, họ bước vào phòng khách có sàn gỗ mộc và hai ô cửa sổ treo rèm tồi tàn. Những mảng hình chữ nhật sáng màu khác nhau trên lớp giấy dán tường hoa hồng màu xanh và hồng cho biết chỗ treo tranh ảnh trước đây. Trong phòng có rất ít đồ đạc: một chiếc sofa nhồi căng với tấm chăn bên trên, một cái tủ sơn có ba ngăn, một cái bàn trên đặt cây đèn bàn cũ bằng đồng, một chai nước trống không, một quyển sách và một chồng tạp chí thời trang.

“Sáu tháng trước còn có mấy người thuê nhà sống ở đây,” April nói. “Ta chuyển đến ngay khi đã cho người dọn dẹp sạch nơi này.” Bà quay về phía bếp, ngay đằng sau, trong tầm mắt. “Cứ tự nhiên xem xét xung quanh nhé, ta đi tìm quyển sổ đã.”

Chẳng có gì nhiều để mà xem xét, nhưng Blue và Riley cũng nhìn qua hai phòng ngủ. Phòng lớn hơn có một cái giường đẹp mê ly, đầu giường bằng kim loại uốn lượn được sơn màu trắng nứt nẻ. Một đôi đèn ngủ lạc hậu màu hồng bằng thủy tinh sọc đặt trên hai cái bàn không đồng bộ. April đã chải chuốt cho cái giường bằng đống gối và ga màu oải hương tiệp màu với bó hoa điểm trên lớp giấy dán tường xanh đã phai màu. Với một tấm thảm và mấy thứ đồ đạc nữa, căn phòng đã có thể là bố cục nghệ thuật cho một khu chợ trời sang trọng.

Phòng tắm với các thiết bị màu xanh bọt biển thì không đẹp bằng, nhà bếp với khu quầy cũ kỹ và vải sơn lót sàn hình gạch đỏ cũng vậy. Thế nhưng, một giỏ lê bằng liễu gai và bình hoa đất nung đặt trên chiếc bàn lỗi thời bằng gỗ khối ghép đã đem lại cảm giác ấm cúng.

April bước vào bếp sau lưng họ. “Ta không tìm thấy cuốn sổ đâu cả. Hẳn là ta đã để nó ở đâu đó trên nhà chính rồi. Riley, có một cái chăn trong tủ quần áo ở phòng ngủ ấy. Cháu đem nó ra được không? Chúng ta có thể ra chơi ngoài hồ trước khi quay về. Bác sẽ rót cho chúng ta ít trà lạnh.”

Riley vâng lời đi lấy chăn trong khi April rót trà lạnh vào ba cốc màu xanh. Họ đem tất cả ra ngoài. Sau lưng ngôi nhà, mặt hồ lung linh dưới ánh nắng và rặng liễu thẳng tắp trên bờ thả những suối lá xuống nước. Lũ chuồn chuồn bay liệng qua đám hương bồ, một gia đình vịt con đang bơi gần một thân cây đổ tạo thành cái cầu tự nhiên. April dẫn họ về phía hai chiếc ghế dựa ngoài trời bằng kim loại đỏ cũ kỹ có lưng hình vỏ sò hướng mặt ra hồ. Riley thận trọng quan sát quanh hồ. “Có rắn không ạ?”

“Bác đã thấy mấy con phơi nắng trên cái cây kia rơi xuống hồ.” April ngồi xuống một cái ghế trong khi Blue ngồi lên cái kia. “Chúng có vẻ khá hài lòng. Cháu có biết là rắn mềm lắm không?”

“Bác đã chạm vào chúng á?”

“Những con rắn đó thì không.”

“Cháu sẽ không bao giờ chạm vào rắn.” Riley thả ba lô và chăn xuống cạnh hai chiếc ghế. “Cháu thích chó. Khi lớn lên, cháu sẽ có một trang trại toàn cún.”

April mỉm cười. “Nghe hay đấy.”

Blue cũng thấy hay. Cô hình dung ra bầu trời trong xanh, những đám mây trắng lững lờ và một cánh đồng cỏ đầy những chú cún con chạy tung tăng.

Riley bắt đầu trải chăn ra. Không hề ngẩng đầu, nó hỏi, “Bác là mẹ của anh Dean, đúng không ạ?”

Cốc trà khựng lại trên tay April. “Sao cháu biết?”

“Cháu biết mẹ anh ấy tên là April. Mà chị Blue lại gọi bác như thế.”

April nhấp một ngụm trà trước khi trả lời. “Phải, bác là mẹ nó.” Bà không cố nói dối Riley mà chỉ đơn giản nói rằng bà và Dean có mối quan hệ không dễ chịu rồi giải thích qua loa chuyện Susan O’Hara. Riley hiểu những vấn đề riêng tư của người nổi tiếng, con bé có vẻ thỏa mãn.

Tất cả những bí mật này, Blue nghĩ. Cô kéo chiếc áo phông BODY BY BEER xuống. “Cháu vẫn chưa tắm táp gì được. Dù cháu có tắm rồi cô cũng sẽ chẳng thấy có gì khác biệt lắm đâu. Cháu chẳng quan tâm đến quần áo mấy.”

“Cháu quan tâm theo cách riêng của mình,” April nói.

“Ý cô là gì?”

“Quần áo là sự ngụy trang lớn.”

“Với cháu, ngụy trang không quan trọng bằng thoải mái.” Không đúng hẳn, nhưng cô chỉ sẵn lòng tiết lộ đến chừng đó.

Điện thoại của April đổ chuông. Bà liếc nhìn màn hình rồi cáo lui. Riley nằm xuống chăn và gối đầu lên ba lô. Blue nhìn một cặp vịt chúi đầu chổng mông tìm thức ăn. “Ước gì cháu mang theo giấy vẽ,” cô nói khi April quay lại. “Ở đây đẹp quá.”

“Cháu có được đào tạo chính quy không?”

“Có và không.” Blue kể vắn tắt về sự nghiệp học hành và những nét nổi bật từ trải nghiệm chẳng mấy hài lòng với khoa Nghệ thuật ở trường đại học của mình. Tiếng ngáy khe khẽ trôi đến chỗ họ. Riley đã ngủ thiếp đi trên tấm chăn.

“Cô liên lạc được với quản lý của bố con bé rồi,” April nói. “Ông ta hứa sẽ có người đến đây đón vào cuối ngày hôm nay.”

Blue không tin được là mình đang ngồi với một người biết cách liên lạc với quản lý của Jack Patriot. April dùng đầu mũi xăng đan sợi cỏ của mình ủi một cây bồ công anh. “Cháu và Dean đã chọn ngày chưa?”

Blue không đồng lõa với sự dối trá của Dean, nhưng cô cũng không định vạch mặt anh sau lưng. “Chuyện vẫn chưa đến mức như thế đâu cô.”

“Theo những gì cô biết, trước đến giờ cháu là người duy nhất mà nó hỏi cưới.”

“Anh ấy chỉ thấy cháu cuốn hút vì cháu khác biệt. Một khi sự mới mẻ đã hết, anh ấy sẽ tìm đường thoát khỏi thôi.”

“Cháu tin thế à?”

“Cháu gần như chẳng biết gì về anh ấy,” cô thành thật nói. “Cháu thậm chí còn chẳng dám chắc bố anh ấy là ai cho đến tận hôm nay.”

“Nó ghét nói chuyện về thời thơ ấu, hay ít nhất là về quãng thời gian liên quan đến cô và Jack. Cô không trách nó. Cô đã sống một cuộc sống hoàn toàn vô trách nhiệm.”

Riley thở dài trong giấc ngủ. Blue ngẩng đầu lên. “Thực sự tệ đến mức đó sao?”

“Ừ, tệ lắm. Cô chưa bao giờ gọi mình là một fan cuồng vì cô không dâng hiến bản thân cho tất cả mọi người. Nhưng cô đã dâng hiến cho quá nhiều người, mà người ta chỉ có thể cưỡng lại từng ấy rocker trước khi trở nên buông thả.”

Blue hẳn nhiên rất thích hỏi chính xác những rocker đó là ai. Thật may, cô vẫn còn chút kiềm chế trong người. Nhưng cái tiêu chuẩn kép trong những gì April vừa mới nói làm cô lăn tăn. “Làm thế nào mà chẳng ai chỉ trích các rocker trong chuyện quan hệ với các fan cuồng chứ? Tại sao người bị chỉ trích lại luôn là phụ nữ?”

“Bởi thế giới được tạo thành theo cách đó. Một số người ôm ấp cái quá khứ fan cuồng của mình. Pamela Des Barres còn viết nhiều sách về chuyện đó. Nhưng với cô chuyện đó là sai trái. Cô đã để họ sử dụng cơ thể cô như một cái thùng rác. Cô cho phép họ. Chẳng ai ép buộc cô cả. Cô không tôn trọng bản thân mình, và đó là điều làm cô hổ thẹn.” Bà nghiêng mặt về phía mặt trời. “Cô đã buông mình theo lối sống đó. Âm nhạc, đàn ông, ma túy. Cô để nó cầm tù bản thân. Cô thích nhảy nhót suốt đêm trong các câu lạc bộ, rồi ngày hôm sau tung hê công việc người mẫu của mình để nhảy lên một cái chuyên cơ bay từ đầu này đến đầu kia đất nước, nhân tiện quên luôn là mình đã hứa sẽ đến thăm con trai ở trường.” Bà quay sang nhìn Blue. “Cháu phải thấy gương mặt Dean khi cô thực sự giữ lời hứa. Nó kéo cô từ chỗ đứa bạn này sang đứa bạn kia, khoe cô với tất cả mọi người, nói liến thoắng đến nỗi mặt đỏ bừng. Giống như kiểu nó phải chứng minh với bạn bè rằng cô thực sự có tồn tại vậy. Chuyện đó kết thúc lúc nó khoảng mười ba tuổi. Một đứa nhóc con sẽ tha thứ cho mẹ nó gần như mọi chuyện, nhưng khi nó lớn lên, người mẹ coi như đã mất cơ hội chuộc tội.”

Blue nghĩ đến mẹ ruột của mình. “Cô đã chỉnh đốn lại cuộc sống rồi. Cô hẳn phải thấy dễ chịu lắm.”

“Đó là một hành trình dài.”

“Cháu nghĩ sẽ tốt cho Dean nếu anh ấy tha thứ cho cô.”

“Đừng, Blue. Cháu không thể hình dung ra cô đã bắt nó phải chịu những gì đâu.”

Blue có thể hình dung chứ. Có thể không phải theo cách April ám chỉ, nhưng cô biết khi mình chẳng là gì đối với cha mẹ thì mình cảm thấy thế nào. “Thế nhưng... nói gì thì anh ấy cũng phải thấy cô không còn như trước đây nữa. Ít nhất anh ấy cũng nên cho cô một cơ hội.”

“Đừng dính vào chuyện này. Cô biết cháu có ý tốt, nhưng Dean có đủ lý do để cảm thấy như hiện giờ. Nếu không tìm ra cách tự bảo vệ bản thân, nó sẽ chẳng bao giờ trở thành người đàn ông như lúc này.” Bà nhìn đồng hồ rồi đứng dậy. “Cô phải nói chuyện với đội thợ sơn đây.”

Blue liếc xuống Riley lúc này đang cuộn người lại trên tấm chăn. “Cứ để con bé ngủ. Cháu sẽ ở lại đây.”

“Cháu không phiền chứ?”

“Cháu sẽ vẽ một lát, nếu cô có ít giấy.”

“Chắc rồi. Cô sẽ lấy cho cháu.”

“Và có lẽ cháu sẽ dùng bồn tắm của cô nữa. Nếu cô không phiền.”

“Cứ lấy bất kỳ thứ gì cháu cần từ tủ thuốc. Thuốc khử mùi, kem đánh răng.” Bà dừng lại. “Đồ trang điểm.”

Blue mỉm cười.

April cười đáp lại. “Cô sẽ chuẩn bị ít quần áo mà cháu có thể mặc được nhé.”

Blue không thể hình dung ra thứ gì được thiết kế cho cơ thể mảnh mai của April mà có thể vừa với cô, nhưng cô cảm kích trước lời đề nghị.

“Chìa khóa xe của cô trên quầy ấy,” April nói. “Có hai mươi đô trong ngăn kéo cạnh giường ngủ. Khi Riley thức dậy, cháu có thể đưa nó vào thị trấn ăn trưa được không?”

“Cháu không cầm tiền của cô đâu.”

“Cô sẽ ghi hóa đơn cho Dean mà. Làm ơn đi, Blue. Cô muốn tách con bé ra khỏi Dean đến khi nào người của Jack đến đây.”

Blue không chắc tách đứa trẻ mười một tuổi này ra là điều tốt nhất cho cả Riley lẫn Dean, nhưng cô đã bị phê bình vì tội nhúng mũi vào chuyện của người khác rồi nên đành miễn cưỡng gật đầu. “Được ạ.”

April đã soạn sẵn chiếc camisole hồng trang nhã và một cái chân váy xếp nếp sau một thoáng bốc đồng. Bà nhanh chóng sửa lại cả hai món bằng một thứ băng dán hai mặt để làm chúng nhỏ hơn. Blue biết trông cô sẽ trở nên đáng yêu trong bộ cánh đó. Quá đáng yêu. Con thú bông mặc bộ đồ này cũng giống như đeo một cái bảng hiệu YÊU EM ĐI vậy. Đây là vấn đề mà Blue luôn gặp phải mỗi khi cô định tân trang bản thân, là lý do chính khiến cô thôi không làm thế nữa.

Thay vì bộ đồ trên giường, Blue đã kiên quyết mặc một cái áo phông hải quân. Nó chẳng cải thiện cái quần tập yoga nhuộm loang màu tím hơn là mấy, nhưng ngay cả cô cũng không chịu được chuyện xuất hiện trước đám đông trong cái áo phông đi ngủ màu cam với dòng chữ BODY BY BEER. Sự phù phiếm rồi cũng lộ mặt chuột, và cô cúi đầu vào đám đồ trang điểm của April - một chút phấn hồng nhẹ nhàng lên má, một ít son môi và chỉ đủ lượng mascara để làm lông mi cô hiện rõ dài chính xác là bao nhiêu. Chỉ một lần thôi, cô muốn Dean thấy cô hoàn toàn có thể khiến bản thân trở nên tươm tất. Đơn giản là cô không thèm quan tâm thôi.

“Chị trang điểm vào trông xinh lắm,” Riley lên tiếng từ ghế khác trên chiếc Saab của April khi hai chị em đánh xe vào thị trấn. “Không quá nhợt nhạt.”

“Em đã ở cạnh con bé Trinity kinh khủng đó quá nhiều đấy.”

“Chị là người duy nhất nghĩ là nó kinh khủng. Những người khác đều thích nó.”

“Ầy, họ không thích đâu. Được rồi, có thể mẹ nó thì có. Những kẻ còn lại chỉ giả vờ thôi.”

Riley nhoẻn cười, vẻ có lỗi. “Em thích nghe chị nói xấu Trinity lắm.”

Blue cười vang.

Garrison không có quán Pizza Hut nên họ chọn Josie, nhà hàng đối diện hiệu thuốc. Nhà hàng Josie chẳng hấp dẫn lắm, thức ăn thì dở ẹc và không có cơ hội việc làm - Blue đã hỏi tìm việc ngay tư đầu - nhưng Riley lại thích. “Em chưa bao giờ ăn ở một chỗ như thế này. Khác lạ thật.”

“Chỗ này rõ là có nét đặc sắc.” Blue đã gọi món BLT[1], và nó hóa ra có nhiều L hơn B và T.

[1] BLT: viết tắt của bacon-lettuce-tomato sandwich, là món sandwich kẹp thịt muối (B), cà chua (T) và xà lách (L).

Riley lôi một lát cà chua nhờ nhờ ra khỏi cái bánh kẹp. “Thế nghĩa là gì?”

“Nghĩa là nó chỉ giống bản thân nó.”

Riley nghĩ thật lung. “Đại loại như chị vậy.”

“Cảm ơn em. Cả em cũng thế.”

Riley đút một miếng khoai tây chiên vào miệng. “Em thích xinh xắn hơn.”

Riley vẫn mặc cái áo phông FOXY, nhưng đã thay cái quần nhung kẻ màu tím bẩn thỉu ra và mặc một cái quần soóc bò bó quá mức đến nỗi siết chặt bụng con bé. Họ ngồi ở một chiếc bàn nhựa nâu, chỗ ngồi đem lại tầm nhìn đẹp đối với một bộ sưu tập tranh phong cảnh miền Tây xấu xí được trưng bày trên mấy bức tường xanh xỉn kinh tởm cùng với mấy bức tượng vũ công ba lê đầy bụi đặt trong một khung hộp tối mờ. Một cặp quạt trần bằng gỗ giả màu vàng phát tán mùi đồ ăn chiên.

Cửa mở ra và tiếng rì rầm của bữa trưa dừng lại khi một người phụ nữ lớn tuổi trông ghê ghê chống cây ba toong khập khiễng đi vào. Bà ta quá thừa cân, đánh quá thừa phấn và mặc quá thừa vải với cái quần thụng màu hồng sáng cùng áo thắt ngang lưng đồng bộ. Dây chuyền vàng nhiều tầng làm nổi bật cổ áo chữ V khoét sâu, còn viên đá trên đôi hoa tai đu đưa trông giống như kim cương thật. Bà ta hẳn đã có thời xinh đẹp, nhưng lại không vui vẻ chấp nhận chuyện bản thân đang già đi. Đám tóc màu bạch kim ngứa mắt xịt đầy keo cứ uốn lượn, ve vẩy vỗ vào mặt bà ta kia hẳn là tóc giả. Bà ta vẽ lông mày bằng bút chì màu nâu nhạt nhưng lại tung hê sự giản dị bằng lớp mascara đen dày cộm và đánh mắt màu xanh lạnh. Một nốt ruồi nhỏ, có lẽ một thời đã khá quyến rũ, nằm dạt xuống khéo môi màu hồng nhạt. Đôi giày chỉnh hình màu nâu đỡ chẳng được mấy hai cổ chân sưng vù là sự nhượng bộ duy nhất của bà ta để phù hợp với độ tuổi của mình.

Chẳng ai trong những người đang ăn trưa tỏ ra vui vẻ khi thấy bà, nhưng Blue lại nhìn bà ta với vẻ thích thú. Người phụ nữ nọ quan sát quanh nhà hàng chật kín, ánh mắt coi thường lướt qua những người quen, sau đó dừng lài chỗ Blue và Riley. Bà ta công khai săm soi họ trong nhiều giây. Cuối cùng, bà ta bước tới với bộ dạng đe dọa, cái áo thắt ngang hông màu hồng bó vào bộ ngực kinh hoàng được nâng bởi cái áo lót kỳ diệu.

Bà ta lên tiếng khi đã đến bàn bọn họ, “Chúng mày là ai?”

“Cháu là Blue Bailey. Còn đây là Riley bạn cháu.”

“Chúng mày đang làm gì ở đây?” giọng bà ta mang chút âm hưởng Brooklyn.

“Bọn cháu đang dùng bữa trưa nhẹ. Còn bà?”

“Hông bị đau, trong trường hợp chúng mày không nhận thấy. Chúng mày mời ta ngồi chứ?”

Thái độ hống hách của bà ta làm Blue buồn cười. “Dĩ nhiên.”

Vẻ mặt hoảng vía của Riley cho thấy nó không muốn có người phụ nữ nọ ở gần, thế nên Blue lùi vào nhường chỗ cho bà ta. Nhưng bà ta lại dùng ngón tay xua Riley sang bên. “Tránh ra xem nào.” Bà ta đặt một cái túi cỏ to bự lên bàn và từ từ hạ người xuống băng ghế. Riley ép sát người vào cái ba lô, trượt vào sâu hết mức có thể.

Bồi bàn xuất hiện với thìa dĩa và một cốc trà lạnh. “Đồ ăn như thường lệ của bà sắp lên rồi ạ.”

Người phụ nữ phớt lờ cô ta và tập trung vào Blue. “Khi ta hỏi chúng mày đang làm gì ở đây, ý ta là nói trong cái thị trấn này.”

“Bọn cháu đến chơi,” Blue trả lời.

“Chúng mày từ đâu đến?”

“Chà, về căn bản cháu là công dân thế giới. Riley thì đến từ Nashville.” Cô nghiêng đầu. “Bọn cháu đã tự giới thiệu rồi, nhưng bà lại để bọn cháu ở thế bất lợi.”

“Mọi người ai cũng biết ta là ai,” người phụ nữ đáp lại với vẻ cáu kỉnh.

“Bọn cháu thì không.” Mặc dù trong đầu Blue đã xuất hiện mối nghi ngờ mạnh mẽ.”

“Ta là Nita Garrison, dĩ nhiên rồi. Ta sở hữu cái thị trấn này.”

“Tuyệt quá. Cháu cũng đang muốn hỏi ai đó về chuyện này.”

Cô phục vụ xuất hiện với đĩa đựng một muôi phô mai sữa gạn kem và một phần tư quả lê đóng hộp đặt trên đám rau diếp cuộn thái nhỏ. “Của bà đây, thưa bà Garrison.” Giọng nói ngọt lịm trái ngược hẳn với vẻ căm ghét trong mắt cô ta. “Cháu có thể lấy thêm gì cho bà không?”

“Một thân hình hai mươi tuổi,” người phụ nữ quát lên.

“Vâng, thưa bà.” Cô nàng phục vụ rút êm.

Bà Garrison quan sát cái dĩa rồi chọc vào miếng lê như thể đang tìm môt con sâu trốn trong đó.

“Chính xác thì làm thế nào mà người ta lại sở hữu cả một thị trấn vậy ạ?” Blue hỏi.

“Ta thừa hưởng nó từ chồng ta. Trông cô kỳ cục quá.”

“Cháu sẽ coi đó là lời khen.”

“Cô có khiêu vũ không?”

“Bất kỳ khi nào cháu có cơ hội.”

“Ta từng là một vũ công xuất sắc. Ta đã dạy trong xưởng phim Arthur Murray ở Manhattan ở độ tuổi ngũ tuần. Ta có găp ông Murray một lần. Ông ta từng có một show truyền hình, nhưng cô không nhớ được đâu.” Thái độ ngạo mạn của bà ta ám chỉ lỗi là do Blue ngu ngốc chứ không phải do tuổi cô còn trẻ.

“Đúng vậy, thưa bà,” Blue đáp lại. “Thế... khi ba thừa hưởng thị trấn này từ chồng, thì đó là toàn bộ thị trấn ạ?”

“Tất cả các phần thuộc về nó.” Bà ta thọc dĩa vào món pho mai sữa gạn kem. “Cô đang ở với cái thằng cầu thủ bóng bầu dục ngu xuẩn đó, đúng không? Cái thằng đã mua trang trại Callaway ấy.”

“Anh ấy không ngu xuẩn!” Riley kêu lên. “Anh ấy là tiền vệ công giỏi nhất nước Mỹ.”

“Ta không nói chuyện với mày,” bà Garrison quát. “Mày láo xược quá đấy.”

Riley xìu xuống, và thái độ trịnh thượng của Nita Garrison không còn khiến Blue thấy buồn cười nữa. “Riley cư xử rất ngoan. Và con bé nói đúng. Dean có những khiếm khuyết, nhưng ngu xuẩn không phải là một trong số đó.”

Vẻ mặt sững sờ của Riley cho thấy nó không quen được người khác đứng ra bênh vực, điều đó khiến Blue thấy buồn. Cô nhận thấy những khách hàng khác đang hóng chuyện ra mặt.

Thay vì chùn bước, Nita Garrison lai xù lên như một con mèo nổi giận. “Cô lại là đứa để cho đám trẻ con muốn cư xử ra sao thì cư xử chứ gì? Để chúng muốn nói gì thì nói chứ gì. Chà, cô sẽ chẳng làm được gì tốt cho nó đâu. Nhìn nó thử xem. Nó béo ị thế rồi mà cô còn để nó ngồi đó mà ngấu nghiến khoai tây chiên.”

Mặt Riley thoắt đỏ lựng. Xấu hổ muốn chết, con bé chúi đầu xuống dán mắt vào mặt bàn. Blue đã nghe quá đủ. “Riley hoàn hảo, thưa bà Garrison,” cô lặng lẽ nói. “Và cách cư xử của con bé tử tế hơn bà nhiều. Giờ tôi sẽ lấy làm cảm kích nếu bà tìm một bàn khác. Chúng tôi muốn ăn nốt bữa trưa với nhau.”

“Ta sẽ chẳng đi đâu cả. Ta sở hữu nơi này.”

Dù vẫn chưa ăn xong nhưng Blue chẳng còn sự lựa chọn nào ngoài đứng dậy. “Được thôi. Đi nào, Riley.”

Thật không may, Riley bị kẹt trong băng ghế còn bà Garrison thì không nhúc nhích. Bà ta cười khinh bỉ, để lộ ra hàm răng dính son. “Cô cũng láo toét chả khác gì nó.”

Giờ thì Blue đã bốc hỏa. Cô xỉa ngón tay xuống sàn nhà. “Ra đây, Riley. Ngay lập tức.”

Nhận được thông điệp, Riley cố ép người chui qua gầm bàn cùng với cái ba lô. Mắt Nita Garrison nheo lại giận dữ. “Không ai được bỏ đi trước mặt ta. Chúng mày sẽ phải hối hận đấy.”

“Trời ơi, tôi sợ quá. Tôi chẳng thèm quan tâm bà bao nhiêu tuổi hay bà giàu thế nào, bà Garrison ạ. Bà chỉ là kẻ độc ác mà thôi.”

“Cô sẽ hối hận về chuyện này.”

“Không, chắc chắn là không.” Cô quăng tờ hai mươi đô của April xuống, điều đó làm cô tiếc muốn chết vì bữa trưa của họ chỉ tốn có mười hai đô rưỡi, rồi cô khoác tay quanh vai Riley, dẫn nó đi qua cái nhà hàng lúc này đã im phăng phắc và ra ngoài lề đường.

“Chị nghĩ giờ chúng ta có thể quay lại trang trại không?” Riley thì thào khi họ băng nhanh qua cửa.

Blue đã hy vọng có thể hỏi xin việc thêm vài nơi nữa nhưng giờ chuyện đó đành phải đợi thôi. Cô ôm Riley. “Chắc chắn rồi. Đừng để mụ già đó làm em bực bội. Bà ta khoái trò độc địa ấy mà. Em có thể thấy điều đó trong mắt bà ta.”

“Em đoán vậy.”

Blue tiếp tục an ủi con bé khi họ chui vào chiếc Saab đánh xe ra phố chính. Tất cả phản ứng của Riley đều ổn, nhưng Blue biết những lời độc địa đó đã trúng đích.

Họ đi gần bảng phân giới thì nghe thấy tiếng còi hú. Cô liếc vào gương chiếu hậu thì thấy một chiếc xe cảnh sát đang trờ tới. Cô không đi nhanh, cũng chẳng vượt cái đèn đỏ nào, thế nên phải mất một lúc cô mới nhận ra rằng cảnh sát đang đuổi theo mình.

Một giờ sau, cô đã ở trong tù.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.