Kỹ Năng Nuôi Dưỡng Người Cứu Thế

Chương 36




Julian Garcia là sự pha trộn giữa dòng máu Ireland và Tây Ban Nha, đi cùng khiếu thời trang tinh tế của bác sĩ 90210, hay còn gọi Robert Rey. Dành cho buổi gặp mặt Faith lần đầu tiên, anh ta đeo một chiếc vòng cổ Thánh Christopher bằng vàng nhìn thấy rõ trong cổ chiếc áo kẻ sọc tím xen hồng. Chiếc quần đen của anh ta bó sát và tóc vuốt đầy gel. Anh ta là một người ăn vận thời trang, nhưng thứ đập vào mắt nhất ở anh ta lại không phải cách sử dụng màu sắc dũng cảm hay thậm chí là đôi mắt màu xanh lục, mà chính là cơ bắp. Anh ta cao một mét sáu tám khi đi giày và có một cái cổ cỡ chu vi cây một năm tuổi. Anh chàng này rất nghiêm túc tập luyện thể lực. Loại nghiêm túc khiến Faith tự hỏi có phải anh ta là gay. Chuyện đó cũng chẳng quan trọng, nhưng rất nhiều bảo vệ cơ bắp đồ sộ làm việc trong các câu lạc bộ thoát y là gay.

Faith đã gặp Jules sau buổi trưa ở văn phòng Virgil - chậc, giờ là của cô - bên trong Key Arena. Câu đầu tiên cô hỏi là, “Virgil đã sa thải anh, hay anh đã bỏ việc?”

“Tôi bị sa thải.”

“Vì sao?”

Anh ta nhìn vào mắt cô và trả lời, “Bởi vì ông ta nghe thấy tôi nói chuyện về cô.” ít nhất anh ta cũng thành thật. Anh ta hẳn đã có thể nói dối và cô sẽ chẳng bao giờ biết được. “Anh đã nói gì?”

Anh ta do dự. “Về cơ bản là, ông ấy đã cưới một vũ nữ thoát y có bộ ngực bự và ông ấy đúng là một thằng ngốc.”

Virgil không phải người ngốc, dù phần còn lại thì đúng. Cô có cảm giác rằng vẫn còn nữa, nhưng cô không hỏi. Thật mỉa mai làm sao khi anh ta đã bị đuổi vì cô và cô ở đây, đề nghị trao lại cho anh ta công việc ấy năm năm sau. Cô hỏi anh ta thêm vài câu hỏi nữa về mối quan hệ và công việc của anh ta với Virgil. Khi anh ta nói chuyện, anh ta nhìn vào mắt cô, chứ không phải ngực cô. Anh ta không nói chuyện vẻ kẻ cả với cô, cũng như không hành xử như thể các câu hỏi của cô ngớ ngần hay ngu ngốc.

“Đừng lo về việc không biết tí gì. Tổ chức này có tầm mười lăm bộ phận khác nhau và về cơ bản tự mình hoạt động,” anh ta bảo cô. “Virgil là một doanh nhân sắc sảo và ông ấy coi mỗi bộ phận như một tập đoàn của mình. Bởi vì nó thực sự là như thế, và một việc mà ông ấy đã làm rất tốt đó là đặt những người thông minh vào đúng vị trí và để họ làm công việc của họ.”

“Nghe anh nói dễ dàng quá.” Nhưng cô biết không hề dễ.

“Không dễ, nhưng cũng không khó đâu. Virgil không quản lý chi li tổ chức này, và cô chắc chắn cũng không phải làm thế.” Anh ta dừng lại để vuốt thẳng một nếp nhăn trên ống quần của mình. “Thực ra thì, tôi sẽ gợi ý là cô đừng làm thế. Ban giám đốc đã làm công việc vất vả đó hộ cô rồi.”

Đến cuối buổi họp, cô muốn thuê anh ta, nhưng anh ta không chắc liệu muốn nhận việc này. “Chuyện là,” anh ta nói, “tôi thích công việc của tôi ở Boeing. Tôi không chắc mình muốn quay lại.”

Faith không biết anh ta trì hoãn để đòi thêm tiền hay anh ta đang nói sự thật. “Sao anh không đến trận đấu tối nay nhỉ?” cô đề nghị. “Sau đó anh có thể quyết định.”

Lúc này đây, bảy tiếng sau, cô và Jules được xếp ngồi trong một chiếc sô pha ở khu đặc biệt của chủ đội bóng, nghiền ngẫm một chồng tài liệu mà anh ta mang lên từ văn phòng. Cô mặc bộ vét Armani, áo sơ mi trắng, và giày gót nhọn màu đen. Cô muốn được đón nhận một cách nghiêm túc, và cô biết có những người ngoài đó chỉ chờ cô xuất hiện ở một nơi nào đó mặc mỗi váy ngắn và áo lót.

Công việc đầu tiên là học tên các cầu thủ và vị trí của họ rồi xem xét lịch trình. Khi Jules nghiên cứu phần bảng phân công của đội, các tiếng hò reo và la ó từ sân vận động bên dưới tràn lên khu VIP trong khi một đoạn nhạc rống lên từ hệ thống âm thanh.

“Đúng thế!” mẹ cô hét ầm lên từ ban công nhìn xuống sân vận động. “Faith, đến đây nhanh lên. Máy quay đang chiếu vào mẹ và Pebbles này. Chúng ta đang ở trên màn hình lớn.”

Faith liếc nhìn mẹ cô, đang ôm chặt con chó ma quỷ và phát đi những nụ hôn như một ngôi sao điện ảnh. Những chuỗi vòng tay màu hồng màu cam to đùng trượt lên trượt xuống cổ tay bà. Bà mặc một chiếc quần bó sát màu hồng chói và áo ren cùng áo lót hồng bên dưới. Mái tóc vàng của bà được sắp lớp và phun keo thành kiểu Farrah bù xù hoàn hảo. “Ôi Chúa ơi,” Faith thì thầm.

“Bà ấy là một quý bà dễ thương,” Jules nói và tựa lưng ra sau. Rõ ràng là, loại bùa ngải kỳ lạ đặc trưng của mẹ cô vẫn có tác dụng. Faith cũng chẳng thấy ngạc nhiên. Dù gay hay không, đàn ông thích Valerie.

“Bà ấy thật đáng xấu hổ.”

Jules bật cười. “Bà ấy đang rất vui vẻ.”

“Anh có thể cười vì bà ấy không phải mẹ anh.”

“Tôi là đứa con lớn nhất trong tám đứa. Mẹ tôi không có nổi loại năng lượng ấy.” Anh ta thò tay vào một cặp tài liệu và rút ra một chồng giấy. “Đây là lịch thi đấu cho vòng đấu loại đầu tiên.” Anh ta đưa nó cho cô. “Và tôi đã in ra một bản tiểu sử vắn tắt của mỗi cầu thủ để cô xem. Khi cô quen thuộc hơn với đội tuyển, chúng ta có thể xem xét hợp đồng của họ để cô biết được ai là cầu thủ tự do và cầu thủ tự do không giới hạn.”

Faith vuốt mái tóc dài của cô ra sau tai và đọc kỹ lịch trình. Cô biết họ chơi rất nhiều, nhưng không nhận ra lại có tận vài trận đấu một tuần. “Cầu thủ tự do, cầu thủ tự do không giới hạn là gì và sự khác biệt là thế nào?”

Jules giải thích rằng một cầu thủ tự do chơi mà không có hợp đồng và có thể đi bất kỳ lúc nào trước khi anh ta được nối lại hợp đồng. Một cầu thủ tự do không giới hạn là một cầu thủ có hợp đồng đã hết hạn vừa được giải phóng khỏi câu lạc bộ của anh ta và chưa được ai chọn.

“Tất cả những khái niệm đó xuất hiện khi liên đoàn ngừng sử dụng các điều khoản giới hạn nhờ các thương thảo của công đoàn.”

Chả cần biết điều đó mang nghĩa gì. “Chúng ta có cầu thủ tự do nào không?” cô hỏi khi một tiếng kèn hơi rít khắp sân vận động và nhạc nổi lên từ sân băng bên dưới.

“Lúc này thì không. Ban quản trị đều đã khóa chặt họ lại trước vòng tranh giải rồi.” Jules ngước lên và hét to, “Điểm số là bao nhiêu, Valerie?”

“Hai đều. Số hai mốt ở đội anh vừa ghi điểm.”

Số hai mốt là đội trưởng đội bóng và Faith lật tới tiểu sử của Ty Savage rồi đọc các số liệu của anh ta. Anh ta ba mươi lăm tuổi, sinh ở Saskatchewan, Canada, điều này lý giải trọng âm của anh ta. Anh ta cao một mét chín mốt và nặng một trăm lẻ tám cân. Anh ta thuận trái, và đây là mùa giải thứ mười lăm của anh ta ở NHL Anh ta đã chơi cho đội London Knights ở OHL[1] trước khi được chọn đầu tiên ở vòng tuyển chọn và ký hợp đồng với đội Pittsburgh ở giải NHL. Anh ta đã chơi cho đội Penguins, BlackhaWks, Vancouver, và giờ là Chinooks. Mẩu thông tin tiếp theo khiến cằm Faith rơi xuống. “Ba mươi triệu,” cô thở khò khè. “Virgil đã trả anh ta ba mươi triệu? Đô la à?”

[1] Ontario Hockey League: Giải khúc côn cầu cho các cầu thủ từ độ tuổi 15-20 của liên đoàn khúc côn cầu Canada. - ND

“Cho ba năm,” Jules nói rõ, như thể điều đó thì hợp lý hoàn toàn vậy.

Faith ngước lên và với lấy một chai nước đang nằm trên bàn. “Anh ta có đáng giá từng ấy không?”

Jules nhún đôi vai rộng, cơ bắp được che trong một chiếc áo sơ mi lụa màu ngọc. “Virgil đã nghĩ vậy.”

“Anh thì nghĩ sao?” Cô hớp một ngụm nước.

“Cậu ấy là một cầu thủ chủ lực và đáng đến từng đồng một.” Jules đứng dậy và vươn người. “Hãy quan sát và xem cô nghĩ gì nhé.”

Faith đặt giấy tờ lên bàn, rồi nhỏm dậy và theo Jules ra ban công. Cô có quá nhiều thứ để học, thật nản chí làm sao, và rồi cô quá choáng ngợp không nghĩ ngợi gì được nữa. Cô di chuyển qua ba hàng ghế bịt bông của sân vận động và đến cùng mẹ cô đang đứng ở lan can.

Bên dưới trên mặt băng, các hoạt động bị dừng lại và hai đội đang thủ thế. Trong chiếc áo thể thao màu xanh biển đậm, Ty trượt băng qua vòng tròn chính giữa hai lần trước khi di chuyển vào trong. Anh ta dừng lại, chống rộng chân, đặt gậy ngang đùi, và chờ đợi. Quả bóng rơi xuống và trận đấu tiếp tục. Ty huých tay vào đối thủ khi gậy của anh đập xuống mặt băng và anh bắn quả bóng ra sau. Cùng một lúc, các cầu thủ mỗi đội bắt đầu chuyển động, hình thành nên một vòng xoáy hỗn loạn có tổ chức. Áo đội Chinooks màu xanh dương đậm cùng những con số màu trắng trộn lẫn với màu trắng và xanh lục của đội Vancouver.

Số Mười một, Daniel Holstrom, di chuyển về gôn đội Canucks và bắn bóng ngang mặt băng về hướng Logan Dumont, người chuyền cho Ty. Với quả bóng ở giữa lưỡi gậy, Ty trượt ra sau gôn, đi vòng sang bên kia, và bắn. Quả bóng văng khỏi đệm đầu gối của thủ thành và một trận chiến nổ ra. Faith mất dấu quả bóng giữa trận xung đột của gậy gộc và cơ thể. Từ vị trí của cô, tất cả những gì cô thấy là đẩy, huých, và văng cùi chỏ.

Một trọng tài thổi còi và trận đấu dừng lại... trừ Ty, anh ta đẩy một cầu thủ Vancouver, rất mạnh, và gần như làm người kia ngã dập mông. Cầu thủ đó lấy lại thăng bằng ngay trước khi ngã vật ra sau. Họ mắng nhau và Ty ném găng tay của anh lên băng. Một trọng tài trượt đến giữa hai người và nắm lấy ngực áo thi đấu của Ty. Trên đầu trọng tài, Ty chỉ vào mặt mình và rồi vào mặt cầu thủ kia. Trọng tài hỏi anh gì đó, và ngay khi anh gật đầu, người đàn ông nhỏ con hơn ấy thả áo thi đấu của anh ra. Ty nhặt găng lên và trong khi anh trượt về băng ghế, một đoạn quay lại ngay lập tức lóe lên trên màn hình. Bài “Welcome to Jungle” phát ra từ loa sân vận động, và trên màn hình lớn treo lơ lửng trên mặt băng, Faith nhìn Ty nhấc một tay lên trước mặt và chỉ vào đôi mắt màu xanh lục dữ dội của mình. Trên đầu trọng tài, anh ta trừng mắt từ dưới hàng lông mày đen và mũ bảo hiểm trắng. Một nụ cười hăm dọa uốn cong môi anh ta. Một cơn rùng mình chạy dọc xương sống Faith và làm tay cô sởn hết gai ốc. Nếu cô mà là số Ba mươi ba kia, cô sẽ sợ lắm. Rất sợ.

Đề phòng có ai đó lỡ không xem được, nó được chiếu chậm lại một lần nữa. Đám đông bên dưới trở nên cuồng nhiệt, hò hét và dậm chân, khi một lần nữa đôi mắt màu xanh dương dữ dội của Ty khóa chặt mắt đối thủ, vết sẹo trên cằm anh xiên qua đám gốc râu sẫm màu.

“Chúa nhân từ.” Valerie bước lùi lại một bước và ngồi phịch xuống ghế. “Và con sở hữu cậu ta.” Bà đặt Pebbles xuống và con chó nhỏ lạch bạch bước tới chỗ Faith và ngửi giày của cô. “Con sở hữu tất cả bọn họ,” bà thêm vào qua một tiếng thở dài.

“Nghe mẹ nói cứ như họ là nô lệ vậy.” Pebbles nâng đôi mắt hạt đậu đen sì lên nhìn Faith kêu ăng ẳng. Con chó ngu ngốc. “Con thuê họ.” Nhưng có bao nhiêu người phụ nữ trên thế giới có thể nói họ thuê được hơn hai mươi anh chàng đẹp trai, lực lưỡng, những người vụt bóng và đánh lộn với các cầu thủ khác?

Cô chắc là người duy nhất, và ý nghĩ ấy vừa kích thích vừa hãi hùng. Cô nhìn xuống hàng cầu thủ đang ngồi trên băng ghế phạt của đội Chinooks, nhổ nước bọt xuống mặt đất dưới chân, quét mồ hôi khỏi mặt, và cắn miếng bảo vệ miệng của họ. Cảnh tượng tất cả những trò nhổ nước bọt và đổ mồ hôi ấy đáng lẽ phải khiến cô hơi buồn nôn, nhưng vì lý do gì đó lại không.

“Sau trận đấu, Virgil luôn đi tới phòng thay đồ và nói chuyện với đội tuyển,” Jules bảo cô.

Phải rồi, cô biết điều đó, nhưng cô sẽ không bao giờ đi đâu. “Tôi chắc chắn họ sẽ không mong tôi xuất hiện ở phòng thay đồ đâu.” Đã lâu lắm rồi từ thời Faith ở cạnh nhiều đàn ông đến thế trong một không gian nhỏ hẹp. Không kể từ thời họ nhét tiền vào quần lót dây của cô. Rất nhiều trong số đó là các vận động viên. Theo thói quen, cô thường không thích các vận động viên. Các vận động viên và ngôi sao nhạc rock không nghĩ rằng họ phải tuân thủ luật.

“Con phải làm việc đó, Faith,” mẹ cô nói, rời sự chú ý khỏi mặt băng bên dưới. “Hãy làm việc đó vì Virgil.”

Hãy làm việc đó vì Virgil? Mẹ cô lại đang hít cần sa à?

“Các phóng viên sẽ ở đó,” Jules tiếp tục. “Nên việc đó quan trọng đấy. Tôi chắc chắn họ sẽ muốn cô phát biểu vài lời.” Trên mặt băng bên dưới, một tiếng còi thổi lên và các hoạt động tiếp tục. “Loại phát biểu nào thế?” Faith hỏi khi cô nghiên cứu các cầu thủ, những người trông như một bầy áo thi đấu màu xanh trắng có tổ chức.

“Thứ gì đó dễ chịu thôi. Hãy nói lý do cô quyết định không bán đội tuyển.”

Cô liếc nhìn anh ta rồi quay sự chú ý về trận đấu. “Tôi đã quyết định không bán đội tuyển vì tôi ghét Landon Duffy.”

“À.” Jules cười nhẹ. “Khi cô được hỏi, chắc cô nên nói mình yêu khúc côn cầu và Virgil hẳn sẽ muốn cô giữ lại đội tuyển của ông ấy. Rồi đề cập đến việc mọi người nên tới xem trận đấu thứ tư vào thứ Tư tuần sau.”

Cô có thể làm việc ấy. “Thế nếu họ hỏi tôi gì đó về trận đấu thì sao?”

“Như là gì?”

Cô nghĩ một lát. “Như là lao bóng vậy. Tạm dừng do lao bóng là sao? Tôi đã đọc luật đêm qua và không hiểu nó.”

“Đừng lo đến nó. Cũng chẳng nhiều người hiểu lao bóng đâu.” Jules lắc đầu. “Chúng ta sẽ nghiên cứu vài câu trả lời cơ bản trước khi cô nói chuyện với các phóng viên. Nhưng nếu có câu hỏi nào mà cô không hiểu, cứ nói, ‘Tôi không thể bình luận gì vào lúc này.’ Đó là câu không trả lời tiêu chuẩn đấy.”

Cô có khả năng làm việc đó. Có lẽ. Cô ngồi cạnh mẹ cô và xem nốt trận đấu còn lại. Trong ba phút cuối, Ty đốn một đối thủ ngã khỏi bóng và lao tới cuối mặt băng bên kia. Đám đông trong Key hò reo, và ngay sau vạch xanh, anh đưa gậy lại và khai hỏa. Quả bóng bắn ngang mặt băng nhanh đến mức Faith không biết nó ghi điểm cho tới khi một tiếng rống vang lên và ánh đèn trên khung thành nhấp nháy. Người hâm mộ nhảy lên la hét, “Rock and Roll phần 2” nện vang sàn bê tông dưới gót giày Faith, và đội Chinooks trượt quanh Ty, vỗ vào lưng anh bằng đôi găng tay to đùng của họ khi anh trượt với hai tay giơ lên không trung như thể anh là nhà vô địch thế giới. Tất cả trừ Sam, người đang đập vào đầu một cầu thủ nào đó, rồi vứt găng tay của anh ta ra - và trận chiến nổ ra.

Jules giơ một tay lên và đập tay với cả Faith và Valerie. “Màn hat-trick đó là lý do cô trả Thánh ba mươi triệu đấy.”

Faith không biết hat-trick là gì và nhớ thầm phải tra nó trong quyển Hướng Dẫn cho Lũ Ngốc của cô.

Anh ta cười toe toét. “Khỉ thật đấy, Virgil đã thu gom lại một đội chơi quá khủng mùa này. Tôi sẽ thích nhìn họ chơi lắm đây.”

“Điều đó có nghĩa anh là trợ lý của tôi?” Jules gật đầu. “Chính xác.”

***

Sau chiến thắng 3-2 của Seattle trước đối thủ Vancouver, đám đông truyền thông phỏng vấn sau trận đấu trong phòng thay đồ của đội Chinooks vui vẻ hơn hẳn lần trước họ chơi ở Key Arena. Các huấn luyện viên cho phép phóng viên vào sau vài phút, và các cầu thủ cười đùa khi họ lau mình sau khi tắm.

“Hai đội đã hòa trong vòng loại. Các bạn sẽ làm gì để tiến tới cấp kế tiếp?” Jim Davison, phóng viên từ tờ Seattle Times hỏi Ty.

“Chúng tôi sẽ tiếp tục làm điều chúng tôi vừa làm tối nay,” anh trả lời khi kéo khóa quần dài của mình lên. “Sau trận thua trước Canucks lần trước, chúng tôi không thể gánh vác nổi việc mất điểm trong chính tòa nhà của chúng tôi được.”

“Đã là đội trưởng của cả đội Canucks và Seattle, anh nói điều gì là sự khác biệt lớn nhất?”

“Phương châm huấn luyện trong mỗi câu lạc bộ là khác nhau. Đội Chinooks cho tôi nhiều tự do để chơi thứ khúc côn cầu mà tôi thích chơi hơn,” anh trả lời, và tự hỏi khi nào thì họ chuyển sang hỏi về cú hat- trick của anh.

“Tức là?”

Anh liếc qua đầu tay phóng viên nhìn Sam, người đang bị nướng thịt bởi một ai đó đến từ một tờ tin tức mới của Canada. Ty mỉm cười. “Huấn luyện viên Nystrom suy nghĩ một cách mới mẻ.”

“Đội bóng đã có tổng cộng hai mươi phút phạt. Tuần mới rồi thôi, Nystrom còn bộc lộ ước vọng giữ cho số phút phạt một trận đấu ở mức tối thiểu. Anh không xem hai mươi là quá nhiều sao?”

Ty thò tay vào áo và cài khuy. “Không hề, Jim ạ. Chúng tôi khiến cho Vancouver không chiếm được lợi thế hơn người. Nên, tôi sẽ nói tối nay chúng tôi đã làm đúng việc của mình.”

“Anh đã ghi được cú hat-trick đầu tiên của mùa giải trên sân nhà. Cảm giác thế nào?” Cuối cùng cũng đến. “Rất sung sướng. Cả đội tuyển đáng được ghi nhận rất nhiều cho chiến thắng tối nay. Tôi chỉ tình cờ ở đúng chỗ khi Daniel chuyền quả bóng đó cho tôi. Cú chuyền bóng giúp ghi điểm đầu tiên của Monty kể từ khi bị gọi “Cô Duffy đang ở phòng khách,” ai đó từ tờ Post Intelligericer hét to, và Jim quay về hướng đám đông náo động ở ngưỡng cửa. “Cảm ơn, Savage,” tay phóng viên nói và theo dòng người chạy tán loạn ra khỏi phòng thay đồ.

Ty cài nút áo sơ mi màu xanh biển của anh lại và giắt vạt áo vào chiếc quần vải len xám. Anh liếc nhìn các đồng đội, trông họ cũng sững sờ như anh. Đây là trận đấu thứ hai của vòng loại. Họ đã chiến thắng ở sân nhà và huấn luyện viên đã cho phép giới báo chí được tự do tiếp cận đội tuyển. Các phóng viên thích được tự do tiếp cận. Họ thích điều đó như trẻ con thích bánh vậy, nhưng sự xuất hiện đột ngột của Faith Duffy đã gây ra một vụ di tản lớn. Như chuột cống xô nhau thoát khỏi một con thuyền đang chìm. Cái quái gì thế chứ?

Ty đi tất và thọc chân vào giày. Anh cào tay qua mái tóc ướt đẫm và đi vào phòng khách của đội tuyển. Cô Duffy đứng giữa biểu tượng Chinooks vĩ đại dệt vào tấm thảm màu xanh lục, mỉm cười với máy quay và trả lời những câu hỏi được ném vào cô ta từ một nhóm phóng viên thể thao. Cô ta trông hơi mong manh giữa một môi trường toàn nam. Dưới những luồng ánh sáng rực rỡ và đèn chớp máy ảnh, mái tóc mượt mà của cô ta sáng lên, da cô ta gần như tỏa sáng, và môi cô ta có màu hồng láp lánh. Cô ta mặc một bộ vét đen chít eo và cài khuy dưới ngực. Anh và các cầu thủ khác đã làm việc cật lực tối nay, và hình như tất cả những gì cô ta phải làm là xuất hiện đầy rực rỡ, bóng bẩy và rồi giới báo chí phát cuồng lên luôn.

“Điều gì đã khiến cô quyết định không bán đội bóng nữa?” ai đó hỏi.

“Người chồng quá cố của tôi, Virgil, biết tôi yêu khúc côn cầu như thế nào. Ông ấy đã để lại đội tuyển cho tôi vì ông muốn tôi được vui. Tôi giữ nó lại là việc duy nhất đúng đắn.”

Đúng là vớ vẩn hết mức. Ty đi sâu vào phòng và tựa một vai vào ngưỡng cửa dẫn tới phòng tập thể hình.

“Kế hoạch cho đội tuyển của cô là gì?”

Một nụ cười uốn cong khóe môi cô ta và khốn kiếp thật nhưng nó vừa ngây thơ vừa quyến rũ. Cô ta hẳn đã là một vũ nữ thoát y siêu cấp. “Chiến thắng cúp Stanley. Virgil đã gom lại những cầu thủ rất tuyệt vời, và tôi định làm mọi việc mình có thể để bảo đảm chắc chắn chúng tôi mang được cúp về quê nhà Seattle.”

“Chúng tôi nghe nói không có kế hoạch giữ Fetisov cho mùa giải tới.”

Khóe miệng cô ta trễ xuống và Darby Hogue bước tới trước và cứu cái thân cô ta. “Tôi không biết anh lấy thông tin đó từ đâu,” Darby nói, “nhưng chúng tôi không có kế hoạch chuyển nhượng Vlad.” Rồi huấn luyện viên Nystrom bước lên và trả lời vài câu hỏi liên quan đến hạn chế chuyển nhượng trong khi cô Duffy mỉm cười như thể cô ta biết ông ấy đang nói về điều gì.

Ty liếc quanh phòng tìm đồng đội, và ánh mắt anh dừng lại trên người cha anh, người đứng gần văn phòng huấn luyện viên đang nói chuyện với một phụ nữ mặc áo ren cùng áo lót hồng, và ôm một con chó xù lông nhỏ xíu sủa quá nhiều. Bà ta rõ ràng là tuýp của cha anh: tóc vàng phồng to. Trông không tệ nhưng hơi quá vui tươi. Anh tự hỏi cha anh đã xoay xở để tìm ra bà ta ở đâu trong vòng hai tiếng đồng hồ từ khi Ty nói chuyện với ông.

“Lần cuối cùng cô ở dinh thự Playboy là khi nào?” một phóng viên hỏi, kéo sự chú ý của Ty về chỗ chủ đội bóng.

Một nét cau mày kéo nhăn đôi lông mày mượt mà của cô ta. “Hơn năm năm trước.”

“Cô có còn liên lạc với Hef không?”

“Không. Trong khi tôi đánh giá rất cao ông Hetner và luôn biết ơn ông, đời tôi bây giờ cũng đã rất khác rồi.”

Ty hơi chờ mong các phóng viên sẽ hỏi xin số của cô ta khi mà giờ đây cô ta đã độc thân. Anh nghĩ đến những bức hình khỏa thân của cô ta trên tờ Playboy và tự hỏi bao nhiêu người bọn họ đã thấy cô ta xoài người trên các trang giấy.

“Tối nay, đội bóng có cả thảy hai mươi phút chịu phạt. Ở đầu vòng loại, huấn luyện viên Nystrom đã bộc lộ ước vọng giữ cho số phút phạt mỗi trận đấu ở mức tối thiểu. Cô có thấy hai mươi là quá nhiều không?” Jim hỏi cùng câu hỏi anh ta vừa hỏi Ty vài phút trước.

Cô ta mỉm cười và nghiêng đầu sang một bên. “Tôi xin lỗi. Tôi không được phép bình luận về điều đó ngay lúc này.” Một người đàn ông tóc đen và mặc một chiếc áo phông lụa màu ngọc bước tới và thì thầm gì đó vào tai Faith. “À. Được rồi. Số phút chịu phạt của chúng tôi đã tăng lên và chúng tôi không bao giờ thích nhìn cảnh đó hết,” cô ta nói như vẹt.

Ty hẳn đã bật cười nếu anh không quá bực mình. Tất cả các phóng viên đều nhìn nhau và thay vì giễu cợt cô ta vì quá ngu ngốc, lại có người hỏi, “Cô nghĩ sao về trận đấu tối nay?” Hoàn toàn tha mạng cho cô ta.

“Nó rất tuyệt. Tất cả các cầu thủ đều chơi rất giỏi.”

“Virgil đã tập hợp lại một đội tuyển vững chắc. Tôi biết ông ấy từng cố ký hợp đồng với Sean Toews. Chuyện gì đã xảy ra?”

Toews muốn nhiều tiền hơn số anh ta đáng nhận. Đó là chuyện đã xảy ra đấy.

“Tôi không được phép trả lời điều đó.”

“Cô nghĩ gì về cú hat-trick của đội trưởng đội cô?”

Lũ khốn đó hầu như chẳng hề hỏi anh về cú hat-trick. Cô ta mỉm cười, và Ty ngờ rằng cô ta thậm chí còn không biết một cú hat-trick là sao.

“Chúng rất siêu đẳng, tất nhiên rồi. Người chồng quá cố của tôi đã rất tin tưởng tài năng của anh Savage,” cô ta nói, một lần nữa lại đánh vần nhầm tên anh.

“Là Sah-vahge.” Anh nói to trước khi kịp suy nghĩ nhiều.

Cánh báo chí quay lại và nhìn anh. Anh rời người khỏi khung cửa. “Vì cô là chủ đội bóng, cô nên biết cách phát âm tên tôi. Nó là Sah-vahge. Không phải sa-vít.”

Cô đẩy nụ cười của mình lên. “Cảm ơn anh. Tôi rất xin lỗi, anh Sah-vahge. Và vì tôi ký séc cho anh, anh nên biết tôi là Hoa Hậu Tháng Bảy. Không phải Tháng Một.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.