Kình Thiên Kiếm Đế

Chương 2




Thảo nguyên tuyết trắng phau phau chẳng thấy người, chẳng thấy gia súc, ngay cả chim chóc cũng không thấy đâu, một sự im lặng chết chóc bao phủ từ dưới chân tới chân trời.

Đại quân tới Hùng Ưng hồ, trừ một số thi thể đã đông cứng chỉ có mấy cái lều rách nát không đủ kháng cự lại thời tiết giá lạnh, vì thế hiển nhiên là không còn ai sống sót.

Nơi này có hồ nước, có núi chắn gió tuyết, không bị tuyết lớn che phủ cỏ khô, vốn là nơi tốt để tránh rét, tới mùa đông, đáng lẽ phải tiếng người tiếng gia súc rộn ràng huyên náo, những ngọn lửa lớn đốt lên, mục dân tụ tập xung quanh nhảy múa, tiếng sơn ca vang vọng núi đồi mới đúng.

Mục dân vì giữ cho gia súc có đủ thức ăn qua mùa đông, ba mùa xuân hạ thu đều lùa đàn gia súc đi tới những nơi xa chăn thả, cho tới khi trận tuyết đầu mùa đổ xuống mới tới mục trường cuối cùng này.

Cỏ khô ở mục trường Nam Sơn cao bằng người trưởng thành, lay lắt trong gió bắc lạnh căm, cảnh tượng bò dê thành bầy không còn nữa.

Vân Tranh nhớ lại lần đầu mình cùng thương đội tới đây, chỉ cần bát cháo gạo với ít muối ăn thôi, cũng chiếm được nụ cười thuần phác của mục dân, cảm khái nhảy xuống ngựa, dùng đao chém ít cỏ khô, cho vào mồm đại thanh mã, nó há to miệng ăn hết ngay, tháo bỏ hộ giáo trên đầu nó, thế là đại thanh mã khoan khoái cúi đầu gặm cỏ, nó vốn sinh ra ở nơi này.

Hầu Tử đốt một quả tạc đạn, ném vào tảng đá đằng xa, tiếng nổ lớn chấn động cả vùng đất tĩnh lặng, hồi âm vang vang không dứt, vẫn không thấy người ra, không có gia súc bị kinh động, chỉ có bảy tám con thỏ xám vèo cái chạy biến mất. Đại thanh mã phì mũi một cái tỏ ý bất mãn với Hầu Tử, tiếp tục đại nghiệp ăn cỏ của mình.

Lãng Lý Cách có thói quen tới nơi lạ là thử cỏ trước tiên, vừa nhai vừa nói: - Cỏ ngọt, ít nhất đã ba năm không chăn thả, khai xuân nơi này nhất định vô cùng tráng lệ, dù là mục trường Âm Sơn cũng không sánh bằng.

- Vân hầu, ta kiến nghị lập mục trường ở đây, mùa xuân chăn thả một lượt, sau đó chuyển tới mục trường khác, mùa đông quay lại, nếu ngài muốn bắt đầu ngay từ năm sau thì bây giờ đốt cỏ đi, năm sau cỏ mọc càng tốt hơn.

Vân Tranh sai Bột Bột thả Hải Đông Thanh đi dò xét xem có người sống gần đây không, nếu không có thì phóng hỏa đốt, tránh lãng phí cỏ khô.

Quan viên Đậu Sa huyện do huyện lệnh Lưu Hỉ đi đầu, cùng huyện thừa, chủ bạ, úy tào, hộ úy bắt đầu từ Nguyên Sơn đã đo đạc đất đai, đóng từng tấm bảng gỗ lớn đánh dấu.

Càng là nơi gần Đại Tống thì càng vắng người, dù chiến tranh từ nội bộ gây ra, nhưng người Thổ Phồn còn lại vẫn mang theo hi vọng cuối cùng lên cao nguyên nương tựa tộc nhân, nói thế nào thì tộc nhân của mình, những người cùng ngôn ngữ, cùng cách sống đáng tin hơn người Tống xa lạ.

Chẳng mấy chốc một dải Hùng Ưng hồ ánh lửa đỏ rực, khói đen cuồn cuộn, cho dù cách đó cả trăm dặm cũng nhìn thấy, mục dân đáng thương nhìn cảnh này càng thêm sợ hãi.

Ác ma mặc giáp sắt, nanh như lợn rừng, móng như vuốt ưng, da như hổ báo cuối cùng cũng tới thảo nguyên, lão nhân quỳ trên đất tuyết, hai tay hướng lên trời, cầu xin thần vạn năng phụ hộ thảo nguyên, phụ nhân kinh hoàng ôm con nhỏ, thất thần lẩm bẩm: - Thảo nguyên cháy rồi, thảo nguyên cháy rồi....

Kẻ nào lại nỡ lòng đốt đi cỏ gia súc chứ, mùa đông tuyết phủ, cỏ còn quý hơn vàng, mục dân tới giờ vẫn không muốn chấp nhận thực tế, mình không còn bò dê nữa.

Mục dân là dùng để chăn thả gia súc, không còn gia súc thì mục dân lãng phí lương thực, thế nên khi những đầu nhân còn lại của thảo nguyên phát hiện người Tống vượt qua Nguyên Sơn xâm nhập, bọn họ không cần nghĩ nhiều, chỉ mang theo võ sĩ tâm phúc cùng số lương thực còn lại, lên cao nguyên.

Người không còn lương thực thì không đi nhanh được, chẳng đi xa được, lão nhân và nữ nhân kéo xe nặc nặc đi trên đồng tuyết làm sao so được với vó ngựa.

Tuyết ngập đến tận đầu gối, đoàn người tuyệt vọng vẫn dốc toàn bộ sức lực đi qua những cánh rừng, cánh đồng phủ đầy tuyết trắng.

Tuyết đã ngưng từ lâu, nhưng như thế thời tiết càng lạnh, bốn bề im ắng, ai nấy tiết kiệm sức lực ít ỏi vào việc đi đường, thỉnh thoảng lại vang lên tiếng lang gầm sói hú, khiến người ta nghe mà rởn tóc gáy.

Đại quân như dải khăn đen xuất hiện ở chân trời, lão mục nhân có kinh nghiệm biết rằng chỉ cần một thời gian một bữa cơm, bọn họ sẽ bị nuốt chửng, chạy không thoát nữa rồi, cho nên ông ta dừng lại, quỳ xuống thành kính cầu khẩn thần linh phù hộ. Tiếng la hét tiếng khóc lóc náo loạn, phụ nhân dấu những đứa con cao quá bánh xe dưới áo choàng của mình, đó là quy tắc thảo nguyên, quân đội sẽ giết chết lão nhân và nam hài tử cao quá bánh xe, lão nhân vô tích sự lãng phí thức ăn, còn nam hài tử sẽ là uy hiếp trong tương lai.

Tiếng vó ngựa như sấm rền càng lúc càng tới gần rồi, tất cả nhắm mắt lại chờ đợi thời khắc cuối cùng tới, nhưng chiến mã tới gần bọn họ lại rẽ ra như sóng nước xô vào đá, tiếp tục hướng tới phía trước, thậm chí có kỵ binh trẻ nhìn thấy cô bé xinh xắn còn lấy bánh trong lòng ra cho.

Lão Hổ và Báo Tử dẫn đầu đội tiên phong, mục đích của bọn họ là Tước Nhi Sơn, cánh cửa thông từ cao nguyên tới thảo nguyên, chỉ có khóa chặt nơi đó, thảo nguyên Điền Tây mới có thể thực sự ổn định.

Lão mục nhân hoang mang nhìn đại quân đi xa, ông ta không hiểu vì sao ma quỷ lại bỏ qua cho mình.

Không chỉ hoang mang là vì sao mình không chết, càng hoang mang là trước mặt mình có cái túi lương thực lớn, tiểu nữ hại đói ngấu bất chấp mẹ ngăn cản, vừa tránh vừa ngoạm miếng bánh thật to, cái bánh nhân thịt khô cứng đờ to bằng đầu người vậy mà thoáng cái cô bé đã ăn một nửa.

Lão mục nhân Ung Thác nghi ngờ mở túi, cho tay vào lấy ra một vốc thanh khoa vàng vàng, cho vào miệng mấy hạt, mùi vị thành khoa quen thuộc làm ông ta rơi nước mắt, là lương thực thật, ma quỷ không ném lại một bao bùn trều đùa mình như truyền thuyết.

Ma quỳ không giết người?

Vậy vẫn là ma quỷ, lão mục nhân thu gom những túi lương thực ném tán loạn trong đám đông, sờ mặt những đứa nhỏ cảnh giác dấu bánh đi, không nỡ thu bánh của chúng, bảo mọi người đi kiếm củi khô, vội vàng bắc lên mấy cái bếp, cho tuyết vào cùng với thanh khoa, ai nấy đều mệt lắm rồi, dù không hiểu chuyện gì, nhưng lúc này cứ ăn đã.

Cháo thanh khoa vừa mới sôi, mỗi người được chia một bát gỗ, mặc dù không nhiều, cũng tốt hơn ăn cỏ nhiều lắm.

Có kinh nghiêm đó rồi, cho nên khi một đội nhân mã nữa xuất hiện, bọn họ không quá sợ hãi nữa, nhưng vẫn cảnh giác tụ tập lại, bảo vệ số thanh khoa quý giá.

Ung Thác nhìn thấy một khuôn mặt quen thuộc, đó là tên thương nhân to béo trước kia hay tới bộ tộc mình treo đổi, ông ta còn nhớ khi kẻ này tới, đầu nhân của mình đã thu mất của ông ta hai tấm da trâu, sáu con dê, đổi lấy thứ đao kiếm chém chết bao nhiều người... Nghĩ tới đó Ung Thác nhìn chút cháo cuối cùng còn lại trong nổi, bê lên húp cạn, liếm sạch cả bát gỗ, ung dung đợi tên thương nhân kia tới, dù sao mình không còn gì nữa rồi.

Thực ra Ung Thác hơi nhầm, một đại thương cổ như Hoàng Hựu thì mấy khi tự mình đi giao dịch, nhất là lên thảo nguyên, nhưng không quá nhầm, dù sao cũng là một người Tống to béo, ăn mặc hoa lệ, và cùng có một danh xưng chung là thương cổ.

Một tấm khăn cáp đạt trắng như tuyết được Hoàng Hựu cung kính buộc vào cổ Ung Thác, Ung Thác thở dài: - Bằng hữu tới từ phương xa của ta, Ung Thác không còn gì báo đáp nữa rồi, ngụm cháo cuối cùng đã bị ta húp hết.

Hoàng Hựu thương tâm chấm nước mắt: - Huynh đệ của ta, xin tha thứ cho lỗi lầm của ta, ta không biết ngươi lại khó khăn tới mức này, ta từng kiếm được vô số tài phú ở thảo nguyên, giờ tới lúc ta dùng tài phú giúp huynh đệ giàu có, hãy cho ta giúp ngươi thoát khỏi khốn cảnh.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.