Kẻ Ăn Chơi Biến Thành Tổng Tài

Chương 31: Ta lạc mất hắn rồi




Do ban sáng Ngô thị bị phạt, Hạ ma ma rất sợ đến đêm vết thương của nàng ta sưng tấy, cho nên đích thân cùng Lăng Yến phục dịch bên ngoài, lúc bọn họ nghe thấy động tĩnh liền ba chân bốn cẳng vào phòng, thấy Ngô thị nằm ngã ngửa trên đất.

Ngô thị toát mồ hôi lạnh toàn thân, nàng ta là người từng sinh ba đứa con, nhìn vũng máu dưới chân liền biết khó giữ nổi đứa bé. Lúc sinh Diêu Cẩm Ngọc, Ngô thị từng bị xuất huyết sau sinh, tổn thương thân thể, dù sau cẩn thận tĩnh dưỡng nhưng vẫn khó mang thai, bây giờ khó khăn lắm mới có đứa trẻ này, nàng ta đương nhiên vô cùng quý trọng, chẳng ngờ đã qua ba tháng đầu nguy hiểm, thế nhưng vẫn không giữ được đứa bé.

Mấy ngày gần đây liên tiếp chịu đựng đả kích, giờ đây nỗi hận trong lòng Ngô thị dâng mạnh như sóng dữ, đôi mắt đỏ quạch, thần sắc dữ tợn khôn kể. Hạ ma ma và Lăng Yến chạy vào, trông thấy dưới ánh đèn, sắc mặt Ngô thị trắng bợt như tờ giấy, dưới chân lềnh bềnh vũng máu đỏ tươi, hai màu trắng đỏ quyện nhau như ánh sáng của ma quỷ, Hạ ma ma còn kìm được, chứ Lăng Yến thì sợ hãi mềm nhũn tay chân, vội vã che kín miệng mới không hét lên.Hạ ma ma hoảng hốt quỳ ngay xuống đất đỡ Ngô thị vào lòng, trông dáng vẻ nàng biết ngay là đứa bé khó giữ, tức thì vừa thương vừa xót, chỉ hận không thể lấy thân chịu thay nàng ta. Ngô thị được Hạ ma ma ôm lấy, nàng ta cấu chặt lấy cánh tay Hạ ma ma, tựa hồ vừa muốn trút hết nỗi lòng vừa muốn bắt lấy tia hy vọng mong manh, cơn đau khiến Hạ ma ma định thần lại, thấy Lăng Yến vẫn ngơ ngẩn tại chỗ, bà vội quở trách: “Còn không mau gọi người!”Lăng Yến bấy giờ mới hấp tấp xoay người chạy đi, nhưng bỗng nghe thấy giọng nói yếu ớt nhưng sắc bén của Ngô thị vang lên: “Nói rằng vết thương ở tay ta tái phát, lén đi mời Chu đại phu tới, đừng làm ầm lên.” Hạ ma ma nheo mắt, Lăng Yến hiểu ra, vội vã chạy đi. Chốc lát sau Lăng Sương tiến vào, cùng Hạ ma ma đưa Ngô thị nằm lên giường, dọn dẹp qua loa thì Chu đại phu tới, y chăm chú bắt mạch cho Ngô thị, sau rồi lắc đầu thở dài. Biết rằng chắc chắn sẽ mất đứa bé, Ngô thị quay đầu vào trong, lặng lẽ rơi lệ, Chu đại phu bất ngờ chau mày lên tiếng: “Hôm nay khi trở về phu nhân có dùng thuốc an thai không?”

Ngô thị nghe vậy giật nảy người, quay đầu lại, nhấc nửa người dậy nhìn chăm chăm vào Chu đại phu.

Hạ ma ma đoán được tâm ý Ngô thị, lập tức hỏi thay: “Chu đại phu luôn là người chăm sóc cái thai của phu nhân, lúc trước khi đưa phu nhân về, chính ngài đã bắt mạch, lại bảo người uống thuốc dưỡng thai, phu nhân uống xong xuôi mới nằm nghỉ, người còn sợ thuốc dưỡng thương ảnh hưởng tới đứa bé nên không dám dùng. Lúc trước ngài chẳng từng nói mạch bình thường, không ảnh hưởng tới thai nhi cơ mà, sao trước khi đi ngủ còn tốt, giờ đột nhiên lại thế này…”

Chu đại phu tỏ vẻ khó tin, đáp: “Lúc trước tại hạ quả thực thấy mạch tượng vẫn ổn định, thuốc dưỡng thai cũng do chính tay tại hạ kê, đáng lẽ phu nhân uống thuốc xong phải khá lên, nhưng giờ cái thai lại khó giữ, cứ như thể phu nhân đã hít nhầm xạ hương* hoặc dùng thứ độc hại nào đó…”

*Xạ hương: Là chất tiết khô đựng trong túi thơm của con Chồn hương (Hươu xạ) đực đã trưởng thành, rất hại cho phụ nữ có thai.

Ngô thị vẫn luôn thấy có gì đó kỳ quái, bây giờ nghe Chu đại phu nói thế càng dấy lên phẫn hận, lập tức siết chặt tay, trầm giọng nói: “Ngươi khẳng định như vậy sao?!”

Chu đại phu lưỡng lự, lắc lắc đầu đáp: “Tại hạ không dám nói bừa, chỉ xem mạch tượng của phu nhân thì rất khó định chắc. Phu nhân tầm tuổi này còn mang thai, vốn không dễ chăm dưỡng, hơn nữa mấy ngày qua người còn mang tâm tình u ất, bất ổn, khiến suýt sảy thai, hôm nay lại bị phạt đánh, cơ thể suy yếu dần, có lẽ vì vậy mới không giữ được đứa bé.”

Ngô thị vừa đau lòng vừa hối hận, chẳng màng tới lời Chu đại phu, chỉ một mực cho rằng có kẻ hãm hại mình, nàng ta nhất định phải trả lại món nợ máu này. Ngô thị nghĩ vậy rồi ra hiệu với Hạ ma ma, bà ta lập tức mời Chu đại phu ra ngoài kê đơn, đoạn dúi vào tay y một tấm ngân phiếu, dặn dò: “Chuyện này không được để lộ, phu nhân chẳng qua vì vết thương sưng tấy, cho nên mời ngài tới xem sao.”

Chu đại phu quanh năm khám bệnh cho cả phủ, vốn bị Ngô thị mua chuộc từ lâu, nghe vậy lập tức gật đầu đáp ứng, Hạ ma ma sai Lăng Yến đưa y ra ngoài, ra lệnh cho Lăng Tiêu đi sắc thuốc, rồi cùng Lăng Sương thay quần áo và giường chiếu cho Ngô thị. Xong xuôi đâu đấy thì Ngô thị cất lời căn dặn: “Hôm nay ta bệnh không rời giường nổi, chuyện điều tra giao cả lại cho ma ma, dám hãm hại con ta, ta nhất định sẽ đáp lại gấp mười lần! Nếu quả thật có kẻ ăn cây tào, rào cây sung, giở trò yêu ma quỷ quái, ta muốn kẻ đó sống không được, chết không xong!”

Hạ ma ma khóc rưng rưng, thương xót nói: “Phu nhân yên tâm, lão nô lập tức đi tìm hiểu, nếu quả thật có kẻ hãm hại người, lão nô sẽ là người đầu tiên không tha cho kẻ đó. Giờ đứa bé đã đi rồi, phu nhân cũng nên chuyên tâm điều dưỡng thân thể, nếu chẳng may bệnh tình nặng thêm thì chẳng phải trúng ý kẻ khác sao?”

Chờ Ngô thị nhắm mắt lại, Hạ ma ma mới hít sâu một hơi, sai Lăng Sương hầu hạ cẩn thận, đoạn bước nhanh ra ngoài.

Đêm dài miên man, trong khuê phòng của Tứ tiểu thư tại Y Huyền viện, gió xoáy qua ngọn đèn, khiến hoa đèn* nổ đôm đốp, màn che phất phơ, quang cảnh lúc mờ lúc tỏ, cách tấm lụa mỏng, Cẩm Sắt vận đồ ngủ gấm nằm trên giường, một tay thõng khỏi chăn, nàng ngủ không an giấc, thân thể nho nhỏ cuộn tròn, hai tay ghì chặt lấy người, mười ngón tay bấu chặt chiếc chăn tím nhạt. Khuôn mặt nhỏ nhắn hơi cau lại, giống như đương gặp ác mộng, vầng trán lấm tấm mồ hôi.

*Đèn ở đây là cái lồng đèn đặt nến bên trong, hoa đèn là hoa nến.

Bất thình lình, Cẩm Sắt bừng tỉnh, đôi mắt vốn điềm nhiên tự tại, giờ đây trong bóng đêm chớp nháy kinh hoàng, đau thương hòa lẫn với thống hận. Gương mặt đầy máu của Văn Thanh trong mơ lại lần nữa hiện lên, Cẩm Sắt nhắm chặt mắt lại, hàng mi dày run run tố cáo sự hoảng sợ hãi hùng của chủ nhân.Kiếp trước khi Văn Thanh chết thảm, nàng rất hay gặp ác mộng, trong mộng chỗ nào cũng đầy máu, có cơ thể đẫm máu của Văn Thanh, có bóng hình người thân đã mất, ánh mắt họ đầy vẻ trách móc, khiến lòng nàng như vỡ vụn. Nửa đêm gặp ác mộng chưa phải đáng sợ nhất, cái đáng sợ hơn chính là màn đêm đằng đẵng sau đó, bi thương dâng đầy như thác lũ, chầm chậm nuốt chửng nàng, giày vò thần trí nàng, kéo nàng vào sâu trong bóng tối, chẳng thể thấy được ánh sáng.Khi đó ác mộng luôn quấy nhiễu nàng, giờ tuy đã sống lại, nhưng nàng vẫn không thể yên giấc dù chỉ một ngày. Cảnh trong mộng vẫn y hệt, duy cảm xúc sau khi tỉnh mộng là khác, vơi bớt nỗi bi thương và cô quạnh, song nhiều thêm sự lo sợ. Cẩm Sắt luôn nghĩ rằng ông trời ban ơn cho nàng sống lại để cứu mạng em trai, sau khi sống lại, nàng đã cố gắng thay đổi không ít chuyện. Nhưng sống trong hang hùm ổ sói, nàng lại thân cô thế cô, nguy hiểm vẫn rình rập khắp nơi như trước, tuy chuyện Bình Nhạc quận chúa sinh nở thuận lợi khiến Cẩm Sắt vững dạ hơn, thêm tin rằng có thể sửa mệnh, nhưng ngày nào em trai chưa bình an vượt qua kiếp nạn, ngày ấy nàng còn không thể an tâm.Chuyện xảy ra lúc ban ngày càng khiến nàng thấu hiểu sự thâm độc tàn nhẫn của kẻ địch, nếu trước kia lúc rời phủ nàng không ngẫu nhiên chạm trán Hoàn Nhan Tông Trạch, nếu không nhờ hai gã ám vệ kia, giờ này nàng còn có thể ngồi đây mà cảm thán? Nhóm tộc trưởng chỉ muốn duy trì yên ấm giả tạo, chắc hẳn sẵn lòng bỏ qua chị em nàng để bảo toàn danh tiếng Diêu thị, may mà có Dương Tùng Chi ra mặt, nàng lại dâng thêm một vạn lượng bạc mới đổi được chút ít che chở, khiến Ngô thị phải chịu phạt. Nếu nàng không tính trước một bước mà kết giao với phủ Trấn Quốc Công, chỉ sợ hôm nay, dù toàn mạng trở về cũng khó mà chiếm được sự đối đãi công bằng của nhóm trưởng bối. Nghĩ vậy, tâm trạng Cẩm Sắt dần bình tĩnh lại, giống như hạt mầm vùi sâu trong đất đen chợt thức tỉnh, vươn mình đón mưa hứng ánh sáng, bừng lên mạnh mẽ. Nàng nhắm mắt một lúc rồi mở ra, lặng lẽ ngắm nhìn bầu trời bên ngoài, ánh trăng sáng vằng vặc chiếu xuống, đôi mắt trong vốn gợn sóng giờ trở nên tĩnh lặng điềm nhiên.

Áo mỏng thấm đẫm mồ hôi, cả người nhớp nháp khó chịu, Cẩm Sắt rời giường, nhẹ nhàng khoác thêm áo choàng bước tới bàn bát tiên rót nước, đang định đặt ấm trà xuống thì nghe thấy bên cửa sổ vang lên tiếng động.

Cẩm Sắt giật mình, lập tức trở về giường lấy thuốc mê và con dao găm, rồi chăm chú lắng nghe động tĩnh, hình như vọng tới không phải tiếng người, mà là tiếng chim, nàng chợt hiểu ra, thầm thở phào một hơi, tiến lên mở tung cửa sổ, quả nhiên một bóng trắng cuốn theo sương đêm vọt vào, đích thực là Chúa Sơn Lâm.

Nó phi thẳng xuống chiếc bàn, vộc mỏ vào chén nước mà Cẩm Sắt mới rót, đớp một hơi cạn sạch, rồi dùng cái mỏ dính nước liếm láp bộ lông, chẳng màng tới Cẩm Sắt, bay sang ghế thái sư đánh một giấc ngon lành.

Từ lúc Chúa Sơn Lâm biến mất trên núi thì không thấy trở về, Cẩm Sắt cứ tưởng nó đi hẳn, giờ thấy tư thái nó như vậy đành bất đắc dĩ chẳng biết làm sao.

“Tiểu thư…” Giọng nói của Bạch Chỉ vang lên, Cẩm Sắt quay đầu lại, thấy nàng mặc áo mỏng, bộ dạng ngái ngủ bước vào, hiển nhiên đã bị Chúa Sơn Lâm làm tỉnh giấc.

Nhìn con chim ngủ ngon lành trên ghế thái sư, lại thấy chén trà đổ nghiêng ngả, Bạch Chỉ hiểu ra tiếng động ban nãy tới từ đâu, tức thì bĩu môi với Chúa Sơn Lâm, nhìn sang Cẩm Sắt nói: “Tiểu thư tỉnh lại sao không gọi nô tỳ, uống trà lạnh không tốt cho sức khỏe, để nô tỳ đi đun nước mang vào.”

Dứt lời liền định xoay đi, Cẩm Sắt vội bảo: “Thôi, ta không khát, ngoài trời lạnh lắm, đừng đi nữa.”

Bạch Chỉ dừng bước, thấy Cẩm Sắt có vẻ mệt mỏi thì cau mày nói: “Hay để nô tỳ đi sắc cho tiểu thư bát thuốc an thần, hôm qua tiểu thư mệt mỏi cả ngày, chắc khó ngủ nổi, huống chi tiểu thư đang tuổi trưởng thành, đêm ngủ không ngon giấc sẽ tổn tại tới sức khỏe.”Cẩm Sắt mỉm cười bảo: “Ta ngủ luôn đây, mệt quá nên đặt lưng xuống là thiếp đi ngay, không cần sắc thuốc đâu, ngươi cũng mau ngủ đi, hai ngày nay ngươi cũng vất vả nhiều.”Thấy Cẩm Sắt vừa nói vừa che miệng ngáp, Bạch Chỉ cứ tưởng Cẩm Sắt bị Chúa Sơn Lâm đánh thức, vì thế thầm mừng rỡ, gật đầu bước ra. Cẩm Sắt lúc này mới chậm rãi bước tới chỗ con chim, gỡ ống trúc từ chân nó xuống.Nàng ngồi xuống giường, mở tờ giấy dưới ánh sáng leo lét, cứ tưởng trong giấy sẽ ghi chỗ ở của vợ con Bạch Câu Nhi, hoặc là tìm ra manh mối bên kho chế tạo vũ khí, Cẩm Sắt còn đương cảm thán Hoàn Nhan Tông Trạch hành sự nhanh nhẹn, ai ngờ trên giấy không phải vậy,Cẩm Sắt vốn điềm tĩnh chín chắn, ít khi xúc động, nhưng những gì viết trên giấy lại khiến nàng vừa buồn bực vừa xấu hổ, đôi gò má đỏ bừng. Nét chữ rồng bay phượng múa, nhưng đặc những dòng thơ tương tư triền miên. Cẩm Sắt nhìn lướt qua rồi lập tức thả vào nến. Ngọn lửa liếm nhanh, tờ giấy ra tro, gió đêm thổi tan biến, nhưng từng câu từng chữ dường như đã in đậm vào trong lòng nàng, không ngừng hiện lên.

“Đương thì ngã túy mai hoa hương, mỹ nhân nhan sắc kiều như hoa.

Kim nhật mỹ nhân khí ngã khứ, châu bạc nguyệt minh thiên chi nhai. Thiên nhai quyên quyên thường nga nguyệt, tam ngũ nhị bát doanh hựu khuyết.

Thúy mi thiền tấn sinh biệt ly, nhất vọng bất kiến tâm đoạn tuyệt.

Tâm đoạn tuyệt, kỷ thiên lý, mộng trung túy ngọa vu sơn vân, giác lai tư đoạn miên giang thủy.

Miên giang lưỡng ngạn hoa mộc thâm, mỹ nhân bất kiến sầu nhân tâm. Mỹ nhân hề mỹ nhân, bất tri vi mộ vũ hề vi triêu vân, tương tư nhất dạ mai hoa phát, hốt đáo song tiền nghi thị quân.” *Đây là bài thơ Hữu Sở Tư của tác giả Lô Đồng. Dưới đây là bản dịch thơ của Trần Tuấn Khải. Nguồn: thivien (Với nhiều bản dịch khác nhau)

Khi ta say ở nhà ai,

Mặt ai xinh đẹp tươi cười như hoa.

Bây giờ ai vội lìa ta,

Lầu xanh rèm ngọc xa xa chân trời.

Bóng trăng xoay chuyển đầy vơi,

Tóc xanh mày biếc cho người phân ly!

Trông theo nào có thấy chi,

Riêng lòng đôi đoạn đứt chia nghìn tầm.

Non Vu nhớ lúc say nằm,

Đùng khi tỉnh dậy lệ dầm sông Tương.

Sông Tương hoa cỏ mơ màng,

Mỹ nhân chẳng thấy lòng càng xót xa.

Ôm cầm dạo khúc khuây khoa,

Điệu cao, dây đứt, ai là tri âm!

Mỹ nhân ơi hỡi mỹ nhân,

Biết là mộ vũ, triêu vân đâu giờ?

Một đêm trằn trọc tương tư,

Thấy hoa mai nở vội ngờ bóng ai.

Cẩm Sắt nằm trên giường xoay qua xoay lại, suy nghĩ rối ren, sau rồi đứng dậy tới bên bàn phấn, lấy ra một chiếc khuyên tai ngọc bích cùng đôi với chiếc bị Hoàn Nhan Tông Trạch lấy mất, đoạn bước lại gần cửa sổ, đẩy tung cửa ném mạnh chiếc khuyên vào bóng đêm.

Khuyên ngọc bích vụt sáng dưới ánh trăng, sau đó rơi tõm vào ao sen. Trăng sáng như dải lụa chiếu xuyên đêm trường, gió đêm lạnh buốt lùa tận đáy lòng, Cẩm Sắt thất thần ngắm trăng một lúc, rồi mới nhẹ nhàng đóng cửa sổ lại, quay về giường, chốc lát sau liền thiếp say.

Tảng sáng, trong Thục Đức viện, Hạ ma ma hoàn thành việc tra xét từ trong ra ngoài, Ngô thị thức trắng đêm, thấy Hạ ma ma bước vào liền lệnh Lăng Sương đỡ dậy. Thấy Ngô thị nhìn mình với ánh mắt chờ mong, Hạ ma ma bất giác e dè đáp: “Lão nô đã lật tung cả viện lên, nhưng không phát hiện ra sai sót gì, bã thuốc, ấm sắc thuốc, bát thuốc, tất cả đồ ăn thức uống, còn cả bột trong lư hương đều bình thường… Mấy kẻ có thể động chạm vào những thứ ấy lão nô cũng đã tra hỏi…”

Hạ ma ma thở dài, thấy Ngô thị chán chường thì cất tiếng khuyên lơn: “Phu nhân quản việc nhà nhiều năm, uy thế trong phủ rất cao, thường ngày chẳng ai dám nảy sinh ý đồ xấu với người. Đám tôi tớ trong viện này đều được chọn lựa kỹ càng, từ nha hoàn hầu hạ sát người, ma ma quản sự, cho tới đám nha hoàn, bà vú chuyên làm việc vặt. Từ khi phu nhân raắng. Có lẽ đứa bé này vô duyên với phu nhân, mệnh cách không hợp nhau, từ lúc mang thai đứa bé, phu nhân làm gì cũng không thuận lợi, hẳn nó không có phúc hưởng tình thương của phu nhân, giờ nó đã đi rồi, mong phu nhân bớt đau buồn, nên chú tâm tĩnh dưỡng, phu nhân phải nghĩ tới Đại thiếu gia, Nhị thiếu gia và Đại tiểu thư chứ.”

Ngô thị u uất chán nản, nỗi hận trong lòng không biết trút vào đâu, nàng ta đành chấp nhận sự thật, lát sau cất tiếng hỏi: “Đứa trẻ là nam hay nữ?”

Hạ ma ma thở dài đáp: “Là một vị tiểu thư, phu nhân đừng nghĩ ngợi nhiều.”

Đứa trẻ đã mất, Ngô thị nghĩ Hạ ma ma cũng chẳng cần phải giấu diếm làm gì, bất giác trong lòng nàng ta cảm thấy khá hơn đôi chút. Ngô thị chợt hiện vẻ âm hiểm, nói: “Ma ma, đứa trẻ này không có duyên làm con ta, nó đã đi rồi, vậy hãy để nó vì bà mẹ này mà cố nốt chuyện cuối cùng, như vậy vừa đỡ uổng duyên, vừa có thể giúp ta loại trừ kẻ địch, nó cũng yên tâm đầu thai chuyển thế.”

Lúc Ngô thị dặn dò không được để lộ tin tức, Hạ ma ma đã biết rõ suy tính của nàng ta, giờ nghe vậy hiển nhiên đáp ứng, có điều bà không biết Ngô thị sẽ đối phó với ai, vì thế đáp: “Miễn phu nhân cần, lão nô xin vâng lệnh. Nhưng phu nhân định làm gì? Bây giờ phu nhân đang bị cấm chừng, không tiện động thủ.”

Ngô thị cười lạnh: “Có thù tất báo, tộc trưởng chỉ cấm ta không được ra ngoài, nhưng đâu có nói người ngoài không được phép vào đây. Ma ma chỉ cần biết rằng, có kẻ hại chết tiểu thiếu gia trong bụng ta, ngươi phải làm cho tất cả mọi người trong phủ đều tin vậy.”

Cẩm Sắt tỉnh dậy vào giờ Thìn*, ánh dương rạng rỡ chiếu vào phòng, in lên bồn Tố Tâm lan, cánh hoa trắng trong như ngọc, nàng nheo mắt lấy tay ngăn ánh nắng sáng rỡ, lại ngắm bồn hoa một lúc rồi mới lục đục ngồi dậy, hít ngửi hương lan thơm mát, ngắm nhìn phong cảnh tươi đẹp sớm mai, tâm tình bỗng tốt hơn rất nhiều.

*Giờ Thìn: 7h-9h sáng.

Nhóm nha hoàn bước vào thu dọn phòng ốc, mang đồ ăn sáng lên, Cẩm Sắt ân vặn chỉnh tề, chưa ra phòng khách thì Vương ma ma được Kiêm Nhi dìu vào, bà vừa trông thấy Cẩm Sắt vội bước nhanh tới nắm chặt tay nàng, ngắm nghía một lượt, nước mắt thi nhau rơi xuống, nghẹn ngào thốt: “Tiểu thư có tội tình gì chứ!”

Hôm qua lúc Cẩm Sắt về Y Huyền viện thì trời đã xế chiều, Vương ma ma lại vì ốm bệnh mà ngủ mê man, đến đêm tỉnh dậy mới nghe Liễu ma ma kể hết mọi chuyện, bà đương nhiên vô cùng căm phẫn, vì quá lo lắng cho Cẩm Sắt nên trời vừa hửng sáng đã vội bảo Kiêm Nhi dìu sang đây. Vốn dĩ bà không muốn nhắc lại chuyện dơ bẩn đó, nhưng vừa nhìn thấy Cẩm Sắt lại không nhịn được mà khóc nức lên.

Cẩm Sắt hiểu suy nghĩ của Vương ma ma, đành khuyên bảo bà đôi câu, lại hỏi han bệnh tình bà, Vương ma ma mới sực nhớ ra Cẩm Sắt chưa ăn gì, đoạn lấy khăn lau nước mắt, nói: “Xem lão nô này, chỉ rước thêm phiền hà cho tiểu thư. Tiểu thư mau dùng bữa đi, lão nô khỏe hơn nhiều rồi, chốc nữa sẽ thưa chuyện với tiểu thư.”

Thấy Vương ma ma lộ vẻ băn khoăn lo lắng, Cẩm Sắt biết bà có chuyện muốn nói, nên nàng chỉ sai Kiêm Nhi để ý tới bà, rồi sang phòng khách dùng bữa. Hôm nay tinh thần Cẩm Sắt khá tốt, uống được hết hai bát canh nhỏ, sau đó từ tốn trở về phòng ngủ, sai Bạch Hạc canh gác, rồi cùng bàn chuyện mấy ngày qua với Liễu ma ma và Vương ma ma.

Vương ma ma cất lời trước: “Tiểu thư không ở trong phủ nên lão nô có phần lơ là, chẳng ngờ bọn họ dám ra tay với lão nô. Sáng hôm qua cứ tưởng bản thân ngất xỉu do mệt mỏi, nhưng đêm đến nghe chuyện của tiểu thư, lão nô mới dấy lòng nghi ngờ. Lão nô nghĩ hẳn vấn đề bắt nguồn từ bát canh gà ăn ban sáng.”

Cẩm Sắt nhướng mày thắc mắc, Vương ma ma tiếp tục: “Sáng hôm qua khi đang dùng cơm, lão nô nghe thấy đám nha hoàn cãi nhau ngoài sân, mà đêm trước lão thái thái vừa mới đổ bệnh, chỉ sợ có kẻ thừa dịp chê trách viện của tiểu thư mất quy củ, vì thế lão nô mới ra ngoài xem sao, đến lúc quay về thì thấy Bạch Lộ bước ra từ phòng mình. Con bé quanh co một hồi rồi chạy biến, lúc đó lão nô không để ý lắm, không ngờ chốc lát sau uống canh xong lão nô liền ngất xỉu. Đêm qua nhớ lại, sáng nay lão nô mới ra lệnh cho Kiêm Nhi tìm kiếm, quả nhiên thấy dưới chân giường Bạch Lộ có cái này.”

Vương ma ma dứt lời liền đưa cho Cẩm Sắt một cái hà bao nhỏ, bên trong đựng một gói giấy, nàng mở ra thì ngửi thấy mùi thuốc tỏa ra. Cẩm Sắt chau mày, Vương ma ma cất tiếng: “Có lẽ con bé không nghĩ tiểu thư còn có thể sống sót trở về nên mới sơ ý chưa vứt đi, may mà lão nô nhanh tay.”

Cẩm Sắt cả cười, đưa lại hà bao cho Vương ma ma, đoạn bảo: “Ma ma bảo Kiêm Nhi để vào chỗ cũ, sai người theo dõi Bạch Lộ, đừng để nó phát hiện. Nếu nó định thủ tiêu thì ma ma báo cho nha hoàn Tứ phòng tới góp vui đi.”

Vương ma ma biết nếu chỉ bắt được Bạch Lộ cũng vô dụng, nên đành gật đầu, tất thảy nghe theo lời Cẩm Sắt.

Vương ma ma thấy tiểu thư vẫn điềm nhiên bình tĩnh, trên môi còn vương nụ cười, lại nhớ tới những lời tối qua Liễu ma ma nói, tức thì đỏ hoe mắt, lo lắng hỏi: “Tiểu thư hạ quyết tâm hủy hôn thật sao?”

Biết thể nào Vương ma ma cũng hỏi tới chuyện này, Cẩm Sắt gật đầu đáp: “Vú à, hôn sự này nhất định phải lui. Người ta không thích con, con cũng chẳng muốn trèo cao vào nhà quyền quý.”

Vương ma ma âu lo hỏi: “Hiện giờ tiểu thư không có nhà mẹ đẻ chống lưng, thiếu gia vẫn còn nhỏ tuổi, nếu không nhờ vào hôn nhân với Võ An Hầu phủ thì cả cái nhà này liệu có mấy người thật lòng coi trọng tiểu thư… Dù sao chăng nữa, hiện giờ phu nhân Võ An hầu gây gièm pha bậc này, lúc về kinh Võ An hầu hẳn sẽ trừng trị nàng ta đích đáng, thế tử tuy còn non nớt, nhưng có tình cảm thanh mai trúc mã với người, ngài ấy cũng thật lòng quý trọng tiểu thư, tiểu thư gả cho ngài ấy không phải không tốt. Lão nô nghe nói đến giờ thế tử vẫn chưa nạp thiếp, hiếm có chàng trai nào giữ mình được như vậy… Hơn nữa, hôn sự này dù sao cũng do cố phu nhân định ra, sao có thể nói hủy là hủy ngay được.”

Cẩm Sắt nghe vậy rồi nhìn sang Liễu ma ma, thấy bà ấy lộ vẻ muốn nói lại thôi, hiển nhiên cũng không tán thành việc hủy hôn. Nàng hiểu rõ ưu tư của bọn họ, chỉ mỉm cười nói: “Nếu cha mẹ ta còn sống mà gặp phải chuyện này, hai người chắc hẳn sẽ không phản đối đúng không?”

Bọn họ lặng thinh, nhưng vẻ mặt đã biểu lộ tất cả, Cẩm Sắt ngừng cười, nghiêm túc nói: “Nếu cha mẹ ta còn sống, hai người chắc chắn còn tức tối hơn cả ta. Hai người đang sợ rằng hủy hôn rồi sẽ khó tìm được hôn sự khác tốt hơn đấy thôi.”

Vương ma ma rơm rớm nói: “Hiện giờ tiểu thư được gửi nuôi trong họ, nếu từ hôn thì sẽ rơi vào cảnh cao không tới, thấp chẳng xong. Con vợ lẽ sao xứng với người, những gia tộc có vai vế một chút hẳn không bằng lòng cho con trai trưởng của bọn họ lấy người. Vậy tiêu chuẩn phải hạ thấp xuống, chỉ còn lại những gia tộc sa sút, bần hàn, nhưng như thế thật không xứng với nhân phẩm và xuất thân của tiểu thư. Hơn nữa tiểu thư… tiểu thư lại có dung mạo quá xuất chúng, chỉ sợ bọn họ chẳng dám đón người qua cửa.”

Cẩm Sắt bất chợt cười khổ, nàng đương nhiên hiểu rõ những lời Vương ma ma nói. Sau khi hủy hôn, chẳng những các gia tộc công hầu hiển quý không thèm ngó ngàng tới, mà kể cả những gia đình sa sút nghèo khó cũng chẳng dám rước nàng về. Giả như họ đồng ý đón nàng vào cửa, thể nào cũng có kẻ xì xào rằng họ nhắm vào của hồi môn của nàng.

Lựa chọn tốt nhất là công tử con nhà trí thức sa cơ lỡ vận song có chí lớn, nhưng tìm được người như thế thì khó như mò kim đáy bể. Nếu không nữa thì gia đình thương nhân đại hộ, nhưng dù nhà trai giàu có sung túc đến đâu cũng không tốt cho thanh danh của cha và ông nội, lại càng không có lợi cho sự nghiệp quan trường của Thanh Nhi.

Càng nghĩ càng thấy khó, vì dù có chọn được một gia đình tương đối tốt thì vẫn đầy rẫy yếu tố bất lợi. So sánh như vậy, chẳng thà gả quách cho phủ Võ An hầu. Dù sao Cẩm Sắt cũng hiểu rõ hoàn cảnh gia đình hắn, hắn hiện giờ lại có lòng với nàng.

Biết rõ tâm tư của hai bà vú, Cẩm Sắt nghiêm giọng bảo: “Ma ma nghĩ gì ta hiểu hết, nhưng ma ma có từng ngẫm rằng, phu nhân Võ An hầu sinh cho Hầu phủ một cậu quý tử duy nhất, lại có Vạn gia chống lưng, chỉ với vài tin đồn vu vơ, Võ An hầu thật sự có thể trừng trị nàng ta? Dẫu sao nàng ta cũng chỉ muốn tốt cho thế tử, Võ An hầu biết chuyện Giang Châu ắt vẫn đứng về phía vợ mình, sẽ không bênh vực ta. Vì làm mất thanh danh Hầu phủ, nàng ta hẳn nhiên sẽ bị khiển trách, nhưng không quá hai năm nàng ta sẽ lại ngồi lên vị trí chủ mẫu. Để chặn đứng miệng lưỡi thế gian, phủ Võ An hầu hẳn sẽ nghênh ta vào cửa, nhưng có cô con dâu nào giống ta không, chưa gả đi đã gây ác cảm, tương lai không có nhà mẹ đẻ chống lưng, liệu có thể sống tự do thoải mái tại Hầu phủ ư? Ba năm nữa ta mới tới tuổi cập kê, bây giờ gả đi nhưng chưa viên phòng, sẽ không được ghi tên vào gia phả, sống ba năm trong Hầu phủ chẳng khác gì dê dâng miệng hổ, chuyện gì cũng có thể xảy ra, đến lúc đó bọn họ giở trò cũ, bày kế hủy hoại danh tiết của ta chẳng phải càng thêm dễ dàng ư? Nếu vì thế mà ta chịu nhục đuổi ra khỏi phủ thì ngay cả tờ giấy hưu thư* cũng chẳng lấy được. Bây giờ Tạ Thiếu Văn yêu thích ta, nhưng liệu kéo dài được bao lâu chứ, huống chi ta có khúc mắc với mẫu thân hắn, dù nặng tình tới đâu cũng sẽ bay sạch vì đủ kiểu gièm pha hãm hại thôi.”

*Hưu thư: Giấy bỏ vợ.

Thấy hai bà vú không biết trả lời thế nào, nàng liền mỉm cười tiếp: “Đằng nào cũng tổn hại tới thanh danh, lần này ta đã hạ quyết tâm, bất kể thế nào cũng phải từ hôn. Làm người luôn phải có chí khí, nếu mất đi chí khí, sống còn có ích chi. Hơn nữa, ta cũng muốn thuận theo số phận, hiện giờ ta vốn là kẻ sa cơ lỡ vận, sao phải bận tâm nhiều tới xuất thân chứ. Lấy con vợ lẽ thì làm sao? Miễn hắn đoan chính thành thật là được, trước kia tể phụ* tiền triều cũng xuất thân con thiếp thất, nhưng ngài ấy vẫn đưa người vợ tào khang* của mình trở thành nhất phẩm phu nhân đấy thôi? Gả cho con cháu nhà trí thức sa sút thì sao, chưa biết chừng người như thế lại càng mộc mạc chất phác, chững chạc ổn trọng, dù có phải ăn rau qua ngày cũng có nét độc đáo riêng. Còn về gương mặt gây họa này, ta ít ra ngoài là được chớ gì, dẫu sao ta vẫn có của hồi môn phòng thân, sẽ không chết đói chết lạnh đâu. Hai người đánh giá ta cao quá đấy thôi, trên đời đâu hiếm cô nương khả ái yêu kiều, người khác nghe chuyện có khi lại chê cười ta tự cao ngạo mạn quá ấy chứ. Giờ ta vẫn nhỏ tuổi, hủy hôn rồi vẫn còn thời gian tìm kiếm hôn sự khác, so với người chuẩn bị rước vợ vào nhà lại bị từ hôn thì còn tốt hơn chán vạn, tại sao người khác hủy hôn vẫn sống được mà ta thì lại không thể?”

*Tể phụ: Tể tướng.

*Nguyên văn là cụm từ “Tao khang chi thê” (người vợ tao khang, hoặc tào khang): Ám chỉ người vợ (cũng là vợ cả) cưới khi chồng còn nghèo, người vợ tình nghĩa thuở ban đầu còn sống nghèo khổ với nhau.; tiếng Việt còn gọi là người vợ tấm cám (hay tấm mẳn).

Hai bà vú nghe nàng giải thích thuyết phục thì dần xuôi lòng, một lát sau liếc nhìn nhau rồi đồng thanh nói: “Tiểu thư đã quyết tâm đến vậy, chúng nô tài xin nghe theo.”

Ba người tiếp tục bàn bạc chuyện từ hôn, chỉ đợi tin đồn trên chùa Linh Âm truyền xuống thành Giang Châu, rồi nhà họ Thôi gây náo loạn là sẽ thông báo ngay cho nhóm trưởng bối. Bên ngoài bỗng dưng vẳng tới tiếng bẩm của Bạch Hạc: “Tam tiểu thư tới chơi, mời người vào nhà, tiểu thư của chúng nô tỳ đang dùng bữa sáng, vốn định mang bùa bình an xin từ chùa Linh Âm về tặng cho người thì người đã tới trước rồi.”

Cẩm Sắt nghe tiếng ra đón, Diêu Cẩm Hồng vén rèm tươi cười bước vào, nhìn một vòng từ trên xuống dưới Cẩm Sắt, lôi kéo tay nàng nói: “Trông muội hôm nay hồng hào quá, ta vốn cứ lo hôm qua gặp chuyện, giờ muội vẫn còn trốn trong phòng lén khóc nhè cơ.”

Cẩm Sắt phì cười: “Muội đang trốn trong phòng khóc đấy chứ, nhưng nghe thấy Tam tỷ tới nên vui mừng chạy ra ngay, vì tỷ nhất định mang đồ tốt tới an ủi muội.”

Cẩm Sắt vừa trêu ghẹo vừa liếc nhìn chiếc hộp nạm vàng trong tay con bé nha hoàn đi sau Diêu Cẩm Hồng, Diêu Cẩm Hồng liền nháy mắt nói: “Đó là hộp đựng sổ sách, lát nữa ta phải tới chỗ phụ thân báo cáo công việc, vì thế mới mang nó theo. Thứ tốt thì không có, nhưng tin tốt thì có đấy, mà ta thấy muội đâu cần ai an ủi, ta nói ra tin này đảm bảo muội còn thích thú hơn vớ được vàng.”

Cẩm Sắt bị Diêu Cẩm Hồng chọc cười khanh khách, Bạch Chỉ vừa dâng trà vừa cười nói: “Tam tiểu thư sáng ra đã chọc cho Tứ tiểu thư vui vẻ, tin tốt lành gì vậy, cho nô tỳ dỏng tai nghe với.”

Diêu Cẩm Hồng nghe vậy nhấp một ngụm trà rồi nói: “Tứ muội thật tao nhã, trà của con bé nha hoàn nhà muội pha có vị độc đáo lắm.” Dứt lời liền buông chén xuống, nói nhỏ với Cẩm Sắt: “Sáng hôm nay ta nghe được một chuyện liên quan tới muội từ quản sự cửa hàng lụa.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.