Hoàng Thượng Vạn Tuế

Chương 15




n ông nhún vai.

- Về ếch thì tôi có thể nói chuyện thoải mái với ông, nhưng Mitch thì tôi chưa gặp bao giờ. Vả lại, theo những chuyện mà người ta đồn đại về anh ta, thì tôi cũng chẳng lấy đó làm thiệt. Thôi ta nói về những con ếch vậy. Chắc ông đã ngửi thấy mùi rồi chứ? Rồi cũng phải quen thôi. Loài ếch có mùi rất tanh tưởi và nó sống ở những chỗ cũng chẳng thơm tho gì. Nhưng đùi ếch thì bán hơi bị đắt. Riêng tôi thì tôi chẳng thú cái món này, nhưng nhiều kẻ giàu có lại rất khoái. Đây là cả một nền công nghiệp phát đạt đấy. Chúng tôi thu gom ếch từ những người nuôi, sơ chế rồi đem bán cho các khách sạn.

Ông ta ngả người vào lưng ghế và cứ theo cái điệu bộ hùng hồn của ông ta tôi hiểu những con ếch quý giá với ông ta tới mức nào.

- Tất nhiên khâu khó khăn nhất là đánh bắt, - ông ta nói tiếp. - Nhưng may đó không phải là nhiệm vụ của tôi. Fred Jackson là người cung cấp chính cho chúng tôi trong vòng ba mươi năm qua. Không chỉ về số lượng đâu, mà cả chất lượng nữa. Khốn nỗi bây giờ chúng tôi không thể trông cậy vào ông ta được nữa. Ông ta đã già rồi… Cũng như tất cả mọi người mà, có phải vậy không ông? (Ông ta lại cười lớn). Còn chuyện nuôi ếch thì thế này: người ta mua hoặc thuê một khoảnh đất có nhiều đầm lầy và ao hồ. Ông già Fred khôn lắm. Ông ta đã mua đất từ đời nào với giá rẻ như bèo. Ếch chỉ sống bằng côn trùng. Những người nuôi ếch như ông già Jackson ném thịt ôi vào đầm lầy. Thịt ôi sẽ thu hút bầy nhặng xanh to kềnh mà ếch rất khoái. Trong khi bầy ếch mải bắt nhặng, người ta cứ ung dung mà chộp ếch. Có thể nói Fred là chuyên gia về khoản này. Nếu thấy việc đánh bắt ban ngày chưa đủ, ông ta cho thắp đèn điện sáng trưng xung quanh khu đầm để thu hút lũ bướm và côn trùng. Ếch cũng ra ăn vào ban đêm, và đây là lúc để bắt chúng. Một con ếch cái ấp từ mười đến ba mươi ngàn trứng một năm. Chín mươi ngày sau, trứng nở ra nòng nọc. Chỉ cần khoảng hai năm là đã có thể xài được. (Ông ta lại cười). Thôi hội nghị xin được kết thúc ở đây.

- Cám ơn ông. - Tôi nói. - Đó đúng là những chi tiết mà tôi cần. (Tôi ngừng một lát trước khi tiếp tục). Nhưng ông lại cho rằng đó chẳng phải là một thiệt thòi gì đối với ông cả, mặc dù anh ta là một anh hùng dân tộc. Ông giải thích điều này thế nào?

Ông ta có vẻ hơi lúng túng và nhún vai.

- Ông Wallace ạ, trước hết ông cần biết rằng tôi không phải là người sinh ra ở đây. Cũng phải mất một thời gian người ta mới chấp nhận tôi. Tôi đã mua một số cổ phần của doanh nghiệp với Morgan lúc ông ta về hưu. Ông ta mới qua đời cách đây không lâu. Bây giờ thì mình tôi cai quản doanh nghiệp này. Mitch Jackson quá nổi tiếng ở đây vì đã được tặng Huân chương, vì vậy tôi muốn ông đừng trích dẫn tên tôi làm gì. Đối với bọn thanh niên thì hồi ức về anh ta là một điều thiêng liêng, còn những điều tôi nói với ông chỉ là giữa chúng ta với nhau thôi.

- Không sao, - tôi nói. - Tôi sẽ không nhắc gì đến ông nếu ông đã muốn như vậy.

- Đúng là tôi muốn như vậy. (Ông ta nhìn tôi với vẻ nghiêm khắc và nói tiếp). Tôi tới vùng Searle này sau khi Mitch đã chết. Tôi đã được nghe đủ thứ chuyện về anh ta. Bọn trẻ trong vùng sợ anh ta lắm. Theo như họ nói thì anh ta là một thằng du thủ du thực bẩn thỉu. Nhưng khi Mitch được tặng Huân chương, thì anh ta đã bước vào truyền thuyết của cả vùng rồi. Bọn con gái khóc như một lũ ngốc. Và bây giờ người ta nói về hắn cứ như là một ngôi sao nhạc pop.

Tôi không nói gì. Hồi còn trẻ thần tượng của tôi là Sinatra. Tất cả bọn trẻ đều cần phải có thần tượng.

- Nếu ông cần những chi tiết về cá nhân Mitch thì có thể đến hỏi Abe Levi. - Weatherspoon nói tiếp. Đó là một trong số những người lái xe tải của tôi chuyên đi thu gom ếch. Ông ta nhận ếch của Jackson từ nhiều năm nay. (Nói đoạn, Weatherspoon xem đồng hồ). Giờ thì chắc ông ta đang ở nhà chế biến. Ông có muốn nói chuyện với ông ta không?

- Rất sẵn lòng và xin cám ơn ông nhiều, ông Weatherspoon ạ. Một câu hỏi cuối cùng, ông có thể nói gì về Fred Jackson?

Weatherspoon lắc đầu.

- Chẳng có gì để nói cả. Tôi đã gặp ông ta bao giờ đâu. Tôi nghe nói ông ta mất cặp giò vì đánh nhau với cá sấu. Trong thời gian ông ta dưỡng bệnh thì Mitch là người bắt ếch. Sau này ông ta cũng nhúc nhắc đi lại bằng nạng, nhưng sản lượng gần đây giảm đi nhiều. Ở tuổi của ông ấy thế cũng phải thôi. Theo như tôi nghe nói thì ông ấy là một người bủn xỉn nhưng trung thực.

Tôi đứng dậy.

- Tôi sẽ đi gặp Levi ngay bây giờ.

Weatherspoon chỉ tay qua cửa sổ.

- Ông ta ở cái nhà kho lớn kia kìa.Chắc là ông ta đang ăn trưa. (Ông ta cũng đứng dậy). Rất hân hạnh được làm quen với ông, ông Wallace ạ. Nếu ông muốn biết kỹ hơn về những con ếch thì ông đã biết tìm tôi ở đâu rồi đấy.

Chúng tôi bắt tay nhau. Tôi bước ra và ngay lập tức cái mùi tanh tưởi ấy lại vây lấy tôi.

Trong nhà kho mà Weatherspoon chỉ cho tôi có nhiều cô gái da đen đang lột ếch, (cảnh tượng và mùi tanh làm cho tôi buồn nôn), và tôi thấy một ông già chừng sáu nhăm tuổi đang ăn món đậu trắng đựng trong một cái vỏ đồ hộp. Tôi không hiểu sao người ta lại có thể ngồi ăn giữa cái mùi tanh khó chịu này. Nhưng ông già bé nhỏ, béo lùn và săn chắc với bộ râu xoăn tít kia xem chừng vẫn bình thản ngồi ăn. Tôi nhắc lại với ông già những điều tôi đã nói với Weatherspoon. Rằng tôi đi thu thập thông tin cho hãng. Ông già cứ vừa ăn vừa nghe tôi nói, rồi ông nhìn tôi bằng đôi mắt xám lấp lánh ánh tinh quái vốn có của những người nghèo khổ.

Đã nhiều năm làm nghề săn tin, tôi thừa hiểu ý nghĩa của cái nhìn đó.

- Ông Weatherspoon có nói với cháu rằng bác có thể cung cấp một số thông tin, - tôi mào đầu. - Tất nhiên cháu không xin không bác. Năm đô, bác thấy thế nào?

Tôi rút ví ra lấy tờ năm đôla và ve vẩy trước mặt ông già.

- Năm đô chỉ là bắt đầu thôi. Tùy vào những điều bác nói…

Ông già giật năm đôla từ tay tôi nhanh như con thạch sùng đớp muỗi.

- Đồng ý. Thế anh muốn biết về cái gì?

- Hãy cho cháu biết về Fred Jackson. Hình như bác quen ông ta đã nhiều năm.

- Đúng vậy. Nhưng càng gặp tôi lại càng ít muốn lui tới nhà ông ta. Đó là một lão già độc ác. Đồng ý rằng phần lớn người ta rồi sẽ trở nên xấu tính nếu bị mất đi cặp giò, nhưng Fred thì lúc nào cũng vậy hà.

- Xấu tính ư? Có phải bác muốn nói ông ta là người keo kiệt?

- Tôi không muốn nói thế, mặc dù ông ta đúng là một gã keo kiệt. Ông ta là một kẻ xấu tính. Đó là loại người có thể làm những điều tệ hại ngay cả với người bạn thân nhất của mình một cách bình thản nhất trần đời. Vả lại, ông ta làm gì có bạn. Fred bẩn thỉu chẳng khác gì con trai hắn.

- Nhưng con trai ông ta được tặng Huân chương Danh dự kia mà.

Levi nói với giọng đầy bực tức.

- Hắn được tặng là bởi vì hắn là một thằng cục súc, xấu tính và độc ác. Nó lúc nào cũng cắm đầu xông vào bất cứ đâu. Tôi thì cho đó không phải là dũng cảm, mà là ngu ngốc. Cả nhà Jackson đều là những kẻ xấu tính xấu nết. Họ chẳng quan tâm tới ai khác. Đã hơn hai chục năm nay, tuần nào cũng tới nhà lão, nhưng chưa bao giờ cả cha lẫn con mời tôi lấy một lon bia. Chưa bao giờ họ giúp tôi một tay xếp các thùng ếch lên xe. Mà những thùng này có phải nhẹ đâu. Tất nhiên, bây giờ khi Fred mất cặp giò rồi tôi đâu dám nhờ, nhưng khi thằng Mitch đứng ngay đó, nó cũng chỉ nhe răng và trắng dã mắt nhìn tôi làm vã mồ hôi. Trong khi những gia đình nuôi ếch khác ai cũng mời bia tôi, cũng đỡ tôi một tay chất thùng lên xe. Bố con Jackson thì không bao giờ. (Ông già nhìn cái vỏ đồ hộp, vét hết mấy hạt đậu còn sót lại và cho vào mồm). Tất cả cái trò rầm rĩ về chủ nghĩa anh hùng của Mitch làm tôi muốn nôn mửa. Thực ra dân ở đây ai cũng mừng là đã thoát được hắn.

Levi vẫn chưa cho tôi thông tin gì mới hơn so với Weatherspoon.

- Thế bác có gặp thằng cháu nội của Fred không?

- Chỉ một lần duy nhất. Tôi đánh xe tới thì thấy nó đang giặt giũ trong chiếc chậu gỗ nhỏ. Chắc Fred bắt nó làm để trả công đã nuôi nấng nó. Ngay khi thấy tôi, thằng bé chạy tót vào lán và lão Fred liền bước ra. Tôi chưa có dịp nào nói chuyện với thằng bé. Chắc nó đã ngán sống với Fred đến tận cổ nên sau khi nghe tin Mitch chết đã chuồn rồi. Tôi chỉ nhìn thấy nó một lần, mà cũng sáu năm rồi còn gì.

- Chắc bấy giờ nó cũng mười ba mười bốn tuổi rồi.

- Để tôi nghĩ xem nào. Thằng bé gầy gò chẳng giống nhà Jackson tẹo nào. Tôi cứ băn khoăn tự hỏi, không biết nó có đúng là con của Mitch không. Mitch có kiểu mặt mà người ta thường thấy trong hồ sơ của cảnh sát. Còn thằng bé này có hạng lắm. Bọn trẻ cùng lớp đều phải thừa nhận điều đó. Chúng nói thằng bé này khác biệt với chúng. Chắc là nó giống mẹ.

- Thế bác có biết gì về chị ta không?

- Chẳng có ai biết gì hết. Chắc là đứa con gái nào đó mà Mitch đã chơi bời. Mà lũ này trong vùng có vô khối. Mitch chẳng bao giờ để chúng nó được yên. Nhưng đứa nào thì tôi không biết. Thằng bé có lẽ cũng có tính nết như bố nó. Tôi nhớ là tôi có gặp một đứa con gái ở đó. (Ông già ngẫm nghĩ một lát rồi lắc đầu). Nhưng chỉ cách ở đây chừng bốn năm tháng gì đó, rất lâu sau khi thằng bé biến mất.

Cố gắng che đậy vẻ quan tâm của mình, tôi hỏi một cách thờ ơ.

- Bác kể cho cháu về cô bé ấy đi.

- Tôi cũng chỉ nhìn thoáng thấy nó thôi. Nó ngồi giặt bên cái chậu gỗ nhỏ như thằng bé ngày nào. Ngay khi tôi vượt qua chỗ ngoặt, con bé chạy tọt vào nhà. Khi Fred đi ra tôi hỏi ông mới có người giúp việc à, ông ta chỉ ậm ừ tỏ vẻ khó chịu. Với ông ta đừng có hy vọng gì hơn. Tôi nghĩ chắc ông ta thuê ở thành phố về thay thế cho thằng cháu. Phải thú thật điều đó khiến tôi càng thêm tò mò. Tôi dò hỏi mọi người, nhưng chẳng ai biết con bé làm việc ở nhà Fred. (Ông già nhún vai). Tôi không bao giờ gặp lại con bé nữa.

- Con bé nhìn thế nào? Chừng bao nhiêu tuổi? Levi liếm chiếc thìa đang giữ trong tay và cho vào túi.

- Nó còn trẻ, mảnh mai với mái tóc vàng thả dài.

- Nó ăn mặc ra sao?

- Quần bò, còn gì nữa thì tôi không nhớ. Có thể thằng Johnny cũng ở đó và lăng nhăng với con bé. Fred chắc cáu lắm. Ngày xưa ông ta cũng bực vì những chuyện trai gái của thằng Mitch. (Levi ngừng lời và lại nhìn tôi bằng cái nhìn tinh quái). Anh có quan tâm tới chuyện này không?

- Một câu hỏi cuối cùng. Có vẻ như Mitch là một gã thích cô độc. Hắn không có một người bạn nào sao?

Levi gãi râu.

- Nó cũng có giao du với một thằng du thủ du thực như hắn. (Ông già như nhìn vào cõi hư vô). Nhưng tên nó thì tôi quên rồi.

Tôi rút ra một tờ năm đôla nữa nhưng giữ ở ngoài tầm với của Levi. Ông già nhìn tờ giấy bạc, gãi đầu rồi gật gật đầu.

- À, tôi nhớ ra rồi. Hắn tên là Syd Watkins. Hắn đăng lính cùng đợt với Mitch. Cả làng đều mừng là cả hai thằng đều đi cho khuất mắt. Cha mẹ nó đều là người tử tế cả. Họ có một cửa hàng thực phẩm ở Searle. Nhưng khi người vợ chết, ông ta cũng bỏ luôn. Thiếu bà ấy, ông không thể một mình trông nom cửa hàng được. Thằng Syd thì cả đời không động chân động tay lấy một giờ.

- Thế Mitch là bạn của Syd à?

Ông già nhăn mặt.

- Chuyện đó thì tôi không biết. Chỉ biết bọn nó kết bè kết đảng quậy phá. Khi Mitch gây gổ với ai đó, thằng Syd không bao giờ dây vào. Cứ như nó là cái đầu còn thằng Mitch là chân tay ấy.

- Thế sau chiến tranh Syd có trở về không?

- Không. Thi thoảng tôi có lai rai với ông già nó. Ông già ngày nào cũng chờ tin nó, nhưng đến tận bây giờ vẫn chẳng thấy tăm hơi. Người ta chỉ biết Syd đã giải ngũ, đã về Mỹ và mất hút. Theo tôi thì chắc nó chẳng làm được điều gì tốt lành đâu.

Tôi ngẫm nghĩ một lúc rồi đưa tờ năm đôla cho ông già.

- Nếu cháu cần điều gì nữa cháu sẽ còn đến gặp bác. – Tôi nói.

Tôi nóng lòng muốn đi ra ngoài mong được hít thở một chút không khí trong lành.

- Bác thường ở đây vào giờ này chứ?

- Ngày nào vào giờ này tôi cũng có mặt ở đây.

Ông già nói và nhét vội tờ giấy bạc vào túi.

- Nhờ bác chỉ giúp đường đến nhà Fred.

- Anh đi xe hơi à? Ông ta ở cách đây bảy tám cây số thôi à. – Rồi ông ta chỉ dẫn tỉ mỉ đường đi cho tôi. – Coi chừng lão Fred đấy, nghe chưa. Hắn là một kẻ thô tục.

Nhẩm lại những điều vừa biết được, tôi đi tới chỗ đỗ xe và phóng thẳng đến Ngõ Cá sấu. Lúc rẽ ra đường cái, tôi ngó thấy đồn cảnh sát. Tôi đắn đo không biết có nên vào trình diện hay không. Kinh nghiệm dạy tôi rằng cảnh sát đôi khi rất ghét cánh thám tử thọc mạch vào những chuyện địa phương họ. Nhưng tôi quyết định trước hết phải tới gặp Fred Jackson đã. Chả gì ông ta cũng đã trả tiền cho hãng để tìm đứa cháu nội của ông ta. Biết đâu ông ta chả muốn việc điều tra được giữ kín.

Levi đã báo trước với tôi rằng không có biển chỉ đường đến Ngõ Cá sấu. Ông ta dặn dò phải tìm một con đường nhỏ gần như đã bị các bụi cây che khuất. Sau khi cho xe chạy thật chậm mà không cản trở giao thông tôi đã tìm được chỗ rẽ và cho xe quặt vào một con đường đất ngoằn nghèo trông giống như một con rắn đang quằn quại giãy chết. Hai bên đường là rừng rậm. Qua được ba cây số, con đường rộng hẳn ra: ở đây các xe tải có thể đợi đi xuống con đường nhỏ dẫn ra đường cái.

Tiếng kêu ì ộp của lũ ếch cho tôi biết rằng tôi đã đến gần nhà Jackson. Con đường hẹp dần và đột ngột ngoặt một góc vuông. Tôi cho xe dấn tới. Rồi tôi thấy một căn nhà gỗ, một cái giếng, một cái xô đặt trước cửa, một chiếc ghế băng đặt dưới cửa sổ đóng kín mít và một thùng tônô đựng ếch. Nghĩa là tôi đã tới nơi.

Tôi dừng xe, tắt máy và bấm còi.

Không một động tĩnh gì, ngoài tiếng ì ộp của lũ ếch.

Tôi đợi một lát rồi lại bấm còi.

Vẫn im lặng.

Tôi nghĩ chắc là Fred đi bắt ếch và xuống xe. Trời nóng và oi. Không một ngọn gió. Cây cối đứng im phăng phắc. Tiếng ì ộp không ngừng của lũ ếch tác động đến thần kinh của tôi. Những âm thanh của chúng phát ra có vẻ gì đó như là của con người. Tôi có cảm giác như nghe thấy tiếng hắng giọng của những ông già. Tôi châm thuốc và tiến hành xem xét ngôi nhà. Nó được xây dựng khá chắc chắn bằng gỗ thông. Xét theo bên ngoài, thì nó gồm một phòng khách và hai phòng nhỏ.

Tôi thấy cửa ra vào hé mở.

Tôi toát mồ hôi: hơi nóng, bản hợp ca của lũ ếch và vẻ cô liêu của ngôi nhà khiến tôi cảm thấy căng thẳng. Nó tạo cho nơi này một bầu không khí bí ẩn rờn rợn.

Tôi tiến lại gần và gõ cửa. Không thấy động tĩnh gì. Sau khi gõ cửa lần thứ hai và chờ đợi một lát, tôi đẩy cửa. Tiếng ken két của những bản lề hoen gỉ khiến tôi nhảy lùi lại.

Tôi căng mắt nhìn vào bóng tối đang ngự trị trong căn phòng lớn. Trong phòng đầy những đồ gỗ kềnh càng thường thấy ở những chỗ bán đấu giá mà ngày nay chẳng còn ai mua nữa. Tôi thấy Jackson ngồi lên một chiếc bàn lớn. Chắc chắn là Jackson vì ông già râu ria ngồi đó không có chân. Trước mặt ông ta là một đĩa thức ăn. Tôi không nhìn rõ trong đĩa có món gì vì ruồi đã bâu kín.

Tôi chợt nhìn thấy một con ếch bự đang ngồi đớp ruồi ở mép bàn. Nó giương cặp mắt xanh lóe sáng nhìn, rồi nhảy về phía tôi. Tôi vội cúi người xuống.

Con ếch chạm đất rồi biến mất.

- Ông Jackson…, - tôi vẫn đứng bên ngoài lên tiếng.

Ông già vẫn ngồi bất động.

Mắt tôi giờ đã quen với bóng tối. Tôi bước vào phòng.

- Ông Jackson…

Những con ruồi vo ve bay lên, rồi lại đậu xuống đĩa thức ăn.

Tôi nhìn thấy một dòng máu vẫn rỉ chảy trên mặt Fred và một lỗ đạn ở ngay giữa cái trán cáu bẩn của ông già.

Ông già đã chết, như đứa con trai của ông nhưng bị giết một cách sạch sẽ hơn.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.