Hổ Phụ

Chương 34: Gặp lại nữ chủ




Kathryn Dance ngồi xuống, lắc đầu. “Có quá nhiều lời lẽ nóng nảy ở trong đó,” cô nói với Jon Boling.

Cô không khỏi quan ngại trước những bài bình luận đầy ác ý đăng trên blog, và phần lớn lại do những thanh thiếu niên còn trẻ viết lên mạng.

Boling rê chuột trở lại bài bình luận đầu tiên. “Hãy xem chuyện gì đã xảy ra. Chilton chỉ đưa ra nhận xét về một tai nạn chết người. Ông ta chỉ đặt câu hỏi liệu con đường có được bảo trì an toàn hay không. Nhưng hãy nhìn xem những bài trả lời đã chệch xa chủ đề tới mức nào. Chúng đi từ chỗ thảo luận về vấn đề Chilton đưa ra - an toàn trên xa lộ - sau đó chuyển sang vấn đề tài chính của chính phủ, rồi tới cậu thiếu niên đang lái xe, cho dù có vẻ cậu ta chẳng làm gì sai. Những người thảo luận càng ngày càng trở nên kích động hơn và cuối cùng blog biến thành một cuộc ẩu đả về lời lẽ giữa chính những người tham gia với nhau.”

“Giống như trò lan truyền tin tức qua điện thoại. Khi thông điệp đến nơi, nó đã bị bóp méo đi. “Tôi nghe nói...”. “Có người biết một người...”, “Một người bạn của tôi nói với tôi...”.”

Dance liếc qua các trang lần nữa. “Tôi thấy một điều, Chilton không hề đáp trả. Hãy nhìn bài bình luận về mục sư Fisk và nhóm Quyền-được-sống của ông ta.



Trả lời Chilton, do CrimsoninChrist đăng.

Ông là một kẻ tội lỗi không thể hiểu được sự nhân hậu trong trái tim mục sư R. Samuel Fisk. Ông ấy đã hiến dâng cả đời mình cho Chúa và những tạo vật của Người, trong khi ông chẳng hề làm gì ngoài chiều theo đám đông để mua vui và thủ lợi cho chính mình. Cách ông bóp méo quan điểm của mục sư thật bệnh hoạn và báng bổ. Chính ông đáng bị đóng đinh lên thập tự.



Boling nói với cô, “Không, những người viết blog nghiêm túc không đôi co tranh luận trở lại. Chilton sẽ đưa ra một câu trả lời hợp lý, song ngọn lửa chiến tranh - các đòn tấn công giữa những người đăng bình luận - vượt ra khỏi vòng kiểm soát và trở thành chuyện cá nhân. Những bài đáp trả quay sang hướng vào chuyện tấn công, chứ không còn dính dáng gì đến chủ đề nữa. Đó là một trong những vấn đề với các blog. Khi đối diện với nhau, người ta sẽ không gây thù chuốc oán kiểu này. Sự vô danh trên blog đồng nghĩa với việc cuộc xung đột kéo dài nhiều ngày, đôi lúc hàng tuần.”

Dance xem qua các bài bình luận. “Vậy ra cậu ta vẫn chỉ là một học sinh.”

Nữ đặc vụ nhớ lại suy đoán của mình từ cuộc thẩm vấn Tammy Foster. “Chilton đã xóa tên cậu ta và tên trường học đi, nhưng chắc hẳn là trường Robert Louis Stevenson. Nơi Tammy đang học. ”

Boling gõ lên màn hình. “Và đây là bài viết của Tammy. Cô bé là một trong những người đầu tiên nói đến cậu nhóc kia. Và sau đó tất cả những người khác ào ào nhảy vào cuộc.”

Có thể bài viết chính là nguồn gốc tạo nên dáng vẻ tội lỗi mà Dance phát hiện ra trong buổi thẩm vấn. Nếu cậu con trai này đứng đằng sau vụ tấn công, khi đó Tammy, như cô và O’Neil đã suy đoán, hẳn sẽ cảm thấy phần nào phải chịu trách nhiệm về vụ tấn công nhằm vào mình, bởi cô bé đã tự chuốc lấy nó. Và có thể cô bé cũng sẽ thấy có lỗi nếu thủ phạm tiếp tục làm ai khác bị tổn thương. Nó lý giải tại sao Tammy không thích lời gợi ý rằng kẻ bắt cóc cô bé có một chiếc xe đạp để trong ô tô, bởi điều đó sẽ dẫn Dance tới chỗ nghi ngờ một kẻ trẻ tuổi hơn - một học sinh mà cô bé không muốn tiết lộ danh tính vì cô bé vẫn coi hắn là một mối đe dọa.

“Tất cả thật xấu xa,” Dance nói, hất hàm về phía màn hình.

“Cô đã bao giờ nghe nói về cậu bé Vứt rác chưa?”

“Ai cơ?”

“Chuyện xảy ra ở Kyoto vài năm trước. Tại Nhật Bản. Một cậu bé vị thành niên ném vỏ bọc đồ ăn nhanh và cốc giấy đựng soda xuống nền đất trong một công viên. Có người chụp lại được thời điểm cậu ta đang làm việc đó bằng điện thoại di động của mình rồi chia sẻ lên mạng cho bạn bè. Thế là sau đó, bức ảnh bắt đầu xuất hiện trên các blog và các trang mạng xã hội trong khắp cả nước. Những người thích tự thực thi công lý trên thế giới ảo bắt đầu săn tìm cậu ta. Bọn họ xác định được tên, địa chỉ nhà cậu ta và tung ngược lên mạng. Thông tin này lan ra hàng nghìn blog. Toàn bộ câu chuyện trở thành một cuộc săn phù thủy. Người ta bắt đầu xuất hiện trước nhà cậu bé kia và ném rác vào sân. Cậu ta thiếu chút nữa đã tự tử vì việc bị lăng nhục như thế là rất nghiêm trọng tại Nhật Bản,” âm điệu trong giọng nói và ngôn ngữ cơ thể của Boling đều lộ rõ vẻ tức giận.

“Những nhà phê bình thì nói, ồ, đó chẳng qua chỉ là câu chữ và vài bức ảnh. Nhưng chúng cũng có thể trở thành thứ vũ khí gây ra tổn thương nghiêm trọng không thua kém gì những nắm đấm. Và, thẳng thắn mà nói, tôi nghĩ những vết sẹo sẽ lâu mờ hơn.”

Dance thắc mắc, “Tôi không hiểu được một số từ ngữ trong các bài bình luận.”

Boling bật cười. “Ồ, trên các blog, bản tin và mạng xã hội, người ta ưa thích các cách phát âm bóp méo, viết tắt hay tự chế ra từ mới. ‘Sauce’ thay vì ‘source[1]’. ‘Moar’ thay vì ‘more[2]’. ‘IMHO’ là ‘theo thiển ý của tôi’.”

[1. Nguồn (thông tin, nước…).

2. Nhiều hơn.]

“Tôi có thể hỏi được không? ‘FOAD’.”

“Ồ,” anh ta nói, “một lời chào tạm biệt lịch sự dành cho bài bình luận của cô. Có nghĩa là ‘Đi chết đi’. Tất cả những từ viết hoa, tất nhiên rồi, đều có nghĩa là gào lớn”.

“Và ‘p-h-r-3-3-k’ nghĩa là gì?”

“À, đó là ‘ngôn ngữ teen’ của từ ‘freak[3]’.”

[3. Kỳ quái.]

“Ngôn ngữ teen?”

“Một kiểu ngôn ngữ được đám trẻ vị thành niên tạo ra trong vài năm vừa qua. Cô chỉ thấy nó trên những đoạn văn được gõ trực tiếp từ bàn phím thôi. Các chữ số và biểu tượng thay thế chỗ của chữ cái. Và cách phát âm bị thay đổi. ‘Ngôn ngữ teen’ xuất phát từ ‘một nhóm người rất đỉnh’, có nghĩa là những kẻ cừ khôi và sành điệu nhất. Với những thế hệ già hơn như chúng ta, nó có thể khó hiểu. Nhưng khi đã biết rõ rồi, chúng ta có thể viết và đọc nó nhanh không kém gì ngôn ngữ chính thống.”

“Sao bọn trẻ lại dùng chúng nhỉ?”

“Bởi nó sáng tạo và không chuẩn tắc... Và cool[4]. Mà về từ cuối cùng này, nhân đây xin nói luôn, cô cần phát âm là K-E-W-L.”

[4. Thú vị.]

“Kiểu phát âm và ngữ pháp này quả là kinh khủng.”

“Đúng thế, nhưng không có nghĩa những người viết ra nó nhất thiết phải ngu ngốc hay thất học. Chỉ đơn giản là trào lưu thông dụng hiện nay. Và tốc độ là điều quan trọng. Chừng nào người đọc có thể hiểu được cô đang nói gì, cô có thể cẩu thả thoải mái theo ý mà mình muốn.”

Dance nói, “Tôi rất muốn biết cậu nhóc là ai. Có lẽ tôi nên gọi CHP[5] để hỏi về vụ tai nạn Chilton đã nhắc tới.”

[5. Viết tắt của California Highway Patrol: Cơ quan tuần tra xa lộ California.]

“Ồ, tôi sẽ tìm được. Thế giới trên mạng tuy có rộng lớn đấy nhưng cũng thật bé nhỏ. Tôi đã có trang mạng xã hội của Tammy ở đây. Cô bé dành phần lớn thời gian của mình trên OurWorld. Nó còn lớn hơn Facebook và MySpace. Trang mạng này có đến một trăm ba mươi triệu thành viên.”

“Một trăm ba mươi triệu?”

“Phải. Lớn hơn cả dân số nhiều quốc gia,” Boling nghiêng đầu nhìn trong lúc gõ bàn phím. “Tôi đã vào tài khoản của cô bé, chỉ cần làm vài kiểm tra chéo... Kia rồi. Tìm được anh chàng rồi.”

“Nhanh vậy sao?”

“Phải. Tên cậu ta là Travis Brigham. Cô có lý. Cậu ta là học sinh năm ba tại trường Trung học Robert Louis Stevenson ở Monterey. Sẽ lên năm cuối vào mùa thu này. Sống tại Pacific Grove.”

Đó cũng là nơi Dance và các con cô đang sống.

“Tôi đang tìm trong một số bài viết đăng trên OurWorld về vụ tai nạn. Có vẻ như cậu nhóc này trong lúc lái xe từ một buổi tiệc trở về đã bị mất kiểm soát. Hai cô gái bị chết, một người nữa phải nằm viện. Cậu ta không bị thương tích gì nghiêm trọng. Không có bất kì lời buộc tội nào ngoài vài câu hỏi được đặt ra về điều kiện đường xá. Lúc ấy trời đang mưa.”

“Vụ đó ư! Chắc rồi. Tôi vẫn còn nhớ.”

Các phụ huynh luôn nhớ rõ những vụ tai nạn chết người liên quan tới thanh thiếu niên. Và tất nhiên, cô vẫn còn cảm thấy một ký ức đau nhói từ vài năm trước: Người nhân viên tuần cảnh xa lộ gọi điện về nhà cho cô, hỏi cô có phải là vợ của đặc vụ FBI Bill Swenson không. Sao anh ta lại hỏi thế? Cô băn khoăn.

“Tôi rất tiếc phải thông báo với cô, đặc vụ Dance… Tôi e là đã có một tai nạn xảy ra.”

Cô gạt ký ức sang một bên rồi nói, “Dù vô tội nhưng cậu bé vẫn bị nói xấu.”

“Nhưng vô tội thật tẻ nhạt,” Boling cười tinh quái. “Đăng bài về điều đó thì chẳng có gì vui vẻ cả.”

Vị giáo sư chỉ vào blog và nói. “Thứ cô có ở đây là các Thiên Thần Thù Hận.”

“Là gì vậy?”

“Một loại đầu gấu chuyên bắt nạt người khác trên mạng. Các Thiên Thần Thù Hận rất nhanh nhạy trong việc soi mói. Bọn họ tấn công Travis vì nghĩ cậu nhóc đã thoát khỏi điều gì đó do cậu ta không bị bắt sau vụ tai nạn. Họ không tin, hay không đặt niềm tin, vào cảnh sát. Một thể loại nữa là Thèm Khát Quyền Lực - đám này gần giống với những tay chuyên gia gây gổ điển hình ở trường học. Bọn họ muốn kiểm soát người khác bằng cách thúc ép những người này. Rồi còn cả những Cô Nàng Bẩn Tính - đám trẻ thô lỗ thích bắt nạt các đối tượng xung quanh, vậy đấy, dù bản thân bọn chúng chỉ là đồ rác rưởi. Phần lớn là con gái, những cô nàng luôn cảm thấy buồn chán và đăng lên những lời lẽ tàn nhẫn để mua vui cho mình. Nó cận kề với bạo hành vì khoái cảm.”

Âm hưởng giận dữ lại rung lên trong giọng nói của Boling. “Bạo hành... đó là một vấn nạn thực sự. Và đang trở nên tồi tệ hơn. Những con số thống kê gần đây nhất cho thấy ba mươi lăm phần trăm trẻ em đã bị bắt nạt hay đe dọa trên mạng, đa số là nhiều lần,” Boling im lặng, đôi mắt nheo lại.

“Gì thế, Jon?”

“Thú vị thay có một thứ chúng ta không thấy.”

“Là gì?”

“Travis phản công lại trên blog, tranh luận với những người công kích cậu ta.”

“Có thể cậu ấy không biết về chuyện này.”

Boling cười. “Ồ, tin tôi đi, cậu nhóc sẽ biết tất cả chỉ năm phút sau khi bài phản hồi đầu tiên được đăng lên chủ đề của Chilton.”

“Sao chuyện cậu ta không đăng bài lại quan trọng vậy?”

“Một trong những loại tấn công người khác dai dẳng kiên quyết nhất trên mạng được gọi là Phi Vụ Báo Thù Của Những Người Bị Nhục Mạ, hay Nạn Nhân Của Những Kẻ Trả Đũa. Đây là những người từng bị công kích và đang phản công lại. Cảm giác phẫn nộ với xã hội khi bị ruồng bỏ, bị bắt nạt hay nhục mạ vào độ tuổi đó là rất dữ dội. Tôi cam đoan cậu ta đang tức điên, đang tổn thương ghê gớm và muốn trả miếng. Những cảm xúc ấy cần được phát tiết ra theo cách nào đó. Cô hiểu ngụ ý rồi chứ?”

Dance hiểu. “Đồng nghĩa với nó là cậu nhóc chính là người tấn công Tammy.”

“Nếu Travis không công kích trên mạng, càng có nhiều khả năng cậu ấy sẽ tìm đến họ trong đời thực hơn,” Boling liếc mắt đầy quan ngại lên màn hình. “Ariel, BellaKelley, SexyGurl362, Legend666, Archenemy - tất cả đều chĩa mũi dùi vào cậu ấy. Có nghĩa là bọn họ đều đang gặp nguy hiểm nếu cậu ta chính là thủ phạm.”

“Liệu tìm kiếm danh tính thật và địa chỉ của những người này với cậu ta có khó không?”

“Chắc rồi, một số người sẽ cần phải xâm nhập vào đường truyền tín hiệu và máy chủ, tất nhiên. Nhưng phần lớn, việc tìm kiếm cũng dễ dàng như cách tôi tìm được tên của cậu ta vậy. Tất cả những gì cậu ấy cần là vài cuốn niên giám trường hay sổ danh sách lớp, rồi tiếp cận vào OurWorld, Facebook hay MySpace. Ồ, và cả lựa chọn ưa thích của tất cả mọi người... Google.”

Dance nhận ra một cái bóng dần bao trùm lên họ và Jonathan Boling đang nhìn ra phía sau cô.

Michael O’Neil bước vào phòng làm việc. Dance nhẹ nhõm khi thấy anh. Đôi bên trao nhau nụ cười. Boling đứng dậy. Dance giới thiệu hai người với nhau. Hai người đàn ông bắt tay nhau.

Boling nói, “Vậy là, tôi cần cảm ơn anh vì lần đầu được thử làm cảnh sát.”

“Nếu ‘cảm ơn’ là từ đúng,” O’Neil nói, kèm theo một nụ cười tinh quái.

Họ cùng ngồi xuống bên bàn cà phê, và Dance thuật lại với anh những điều cô và Boling đã tìm thấy... cùng những gì họ nghi ngờ: Có thể Tammy bị tấn công vì đã đăng bình luận lên một blog về cậu học sinh tại trường, con bé cho rằng thằng nhóc phải chịu trách nhiệm về một vụ tai nạn xe hơi.

“Có phải là vụ tai nạn trên Xa lộ 1 hai tuần trước không? Cách Carmel chừng năm dặm về phía nam?”

“Đúng thế.”

Boling nói, “Tên cậu thiếu niên này là Travis Brigham, cậu ta học tại Robert Louis Stevenson, cùng trường với nạn nhân.”

“Vậy thì ít nhất cậu ta cũng có động cơ. Và rất có thể là hung thủ, và chúng ta đang e ngại điều gì nhỉ?” O’Neil hỏi Dance. “Hung thủ muốn tiếp tục chăng?”

“Nhiều khả năng là thế. Những trò bắt nạt nhục mạ trên mạng dồn đẩy người ta tới quá ngưỡng chịu đựng. Tôi đã thấy chuyện đó diễn ra hàng chục lần rồi.”

O’Neil gác hai chân lên bàn cà phê và lắc lư trên ghế. Hai năm trước, cô từng cược mười đô la với anh là đến một ngày nào đó anh sẽ lộn nhào. Cho đến nay cô vẫn chưa nhận được món tiền đó. Anh hỏi Dance, “Có gì thêm về các nhân chứng không?”

Dance cho hay TJ vẫn chưa quay về sau chuyến đi tìm hiểu về camera an ninh gần xa lộ nơi cây thập tự thứ nhất được để lại, và Rey cũng chưa hồi đáp gì về các nhân chứng gần câu lạc bộ nơi Tammy bị bắt cóc.

O’Neil nói vẫn chưa có đột phá nào với những bằng chứng vật chất. “Chỉ có một thứ - bên Điều tra Hiện trường tìm thấy một sợi vải bông màu xám trên cây thập tự.”

Anh nói thêm rằng phòng thí nghiệm ở Salinas không thể khớp được nó vào một cơ sở dữ liệu cụ thể nào, ngoài việc báo cáo sợi vải bông nhiều khả năng có nguồn gốc từ quần áo chứ không phải thảm hay đồ đạc.

“Tất cả chỉ có thế thôi, không còn gì nữa sao? Không vân tay, không vết bánh xe?”

O’Neil nhún vai. “Thủ phạm hoặc là rất khôn ngoan, hoặc là cực kỳ may mắn.”

Dance bước tới bàn làm việc và truy cập vào cơ sở dữ liệu của tiểu bang về hồ sơ và nhân dạng. Cô nheo mắt nhìn lên màn hình và đọc, “Travis Alan Brigham, mười bảy tuổi. Theo thông tin từ bằng lái xe, cậu ta sống ở số 408, đường Henderson.” Cô đẩy kính lên sống mũi trong lúc đọc tiếp. “Đáng quan tâm đây. Cậu ta đã có tiền sự,” sau đó lại lắc đầu. “Không, xin lỗi. Tôi nhầm. Không phải cậu ta. Đó là Samuel Brigham, sống ở cùng địa chỉ. Cậu ta mười lăm tuổi. Tiền sự phạm pháp vị thành niên. Bị bắt hai lần vì nhìn trộm, một lần vì gây gổ hành hung. Cả hai lần đều được miễn truy tố, song phải theo trị liệu tâm lý. Có vẻ như là một đứa em trai. Nhưng còn Travis? Không, lai lịch của cậu ta hoàn toàn sạch sẽ.”

Cô kéo bức ảnh trong hồ sơ của cơ quan Quản lý Phương tiện cơ giới[6] lên màn hình. Một cậu nhóc tóc đen với đôi mắt nằm sát nhau, dưới đôi lông mày nâu dày, đang nhìn thẳng vào ống kính. Cậu ta không hề mỉm cười.

[6. Department of Motor Vehicle (DMV).]

“Tôi muốn tìm hiểu nhiều hơn nữa về vụ tai nạn,” O’Neil nói.

Dance gọi điện thoại tới văn phòng sở tại của Đội Tuần cảnh Xa lộ, tên gọi chính thức của cảnh sát Tiểu bang California. Sau vài phút chuyển máy lòng vòng từ đầu dây bên kia, cuối cùng cô kết thúc với trung sĩ Brodsky, Dance bật loa ngoài điện thoại lên và hỏi về vụ tai nạn.

Brodsky lập tức chuyển ngay sang giọng điệu thường thấy khi cảnh sát ra làm chứng trước tòa. Chính xác, không chút cảm xúc. “Hôm đó, ngay trước nửa đêm ngày thứ Bảy, mồng Chín tháng Sáu. Bốn người ở tuổi vị thành niên, ba nữ, một nam đang trên xe xuôi theo hướng bắc nơi Xa lộ 1, đoạn cách khoảng ba dặm về phía nam Carmen Highlands, gần khu Bảo tồn bãi biển Garrapata State. Thiếu niên nam cầm tay lái. Chiếc xe mang kiểu dáng Nissan Altima đời mới. Có vẻ chiếc xe lúc đó đang chạy ở tốc độ bốn mươi lăm dặm một giờ. Người lái xe không nhận thấy một khúc cua, làm xe bị trượt và lao xuống một vách núi. Hai cô gái ngồi băng ghế sau không đeo đai an toàn. Cả hai chết ngay lập tức. Cô gái ngồi trên ghế trước bị va đập mạnh. Cô này phải nằm viện vài ngày. Người lái xe bị giữ lại, kiểm tra và cho về.”

“Travis nói chuyện gì đã xảy ra?” Dance hỏi.

“Chỉ là mất kiểm soát tay lái. Trước đó trời đã mưa nên có nước trên mặt xa lộ. Cậu ta đổi làn đường thế là bị trượt. Chiếc xe của một trong ba cô gái, và các lốp xe không phải ở tình trạng tốt nhất. Cậu ấy không chạy quá tốc độ. Kết quả kiểm tra đều âm tính với cồn và các chất kích thích khác. Cô gái còn sống sót cũng khẳng định những gì cậu ấy kể.” Đâu đó trong giọng nói của anh ta tồn tại chút âm hưởng tự vệ. “Có lý do khiến chúng tôi đã không buộc tội cậu ấy, cô biết đấy. Cho dù người ta có nói gì về cuộc điều tra đi chăng nữa.”

Vậy là viên trung sĩ cũng đã đọc blog nọ, Dance suy đoán.

“Cô sẽ mở lại cuộc điều tra chứ?” Brodsky hỏi đầy cảnh giác.

“Không, cuộc điều tra này liên quan tới vụ tấn công tối thứ Hai. Cô gái trong cốp xe.”

“À, ra là vụ đó. Cô có nghĩ chính cậu ấy làm chuyện đó không?”

“Có thể lắm.”

“Chẳng làm tôi ngạc nhiên. Không hề.”

“Sao anh lại nói vậy?”

“Đôi khi cô có một cảm giác rằng Travis là người nguy hiểm. Cậu ta có đôi mắt hệt như mấy đứa nhóc ở Columbine.”

Làm cách nào anh ta có thể biết được khuôn mặt những kẻ sát nhân trong ‘vụ tàn sát kinh hoàng năm 1999[7]’?

[7. Vụ thảm sát xảy ra ngày 20/4/1999 tại trường Trung học Columbine, hạt Jefferson, tiều bang Colorado, khi hai học sinh năm cuối xả sung bắn chết 12 học sinh và 1 giáo viên.]

Brodsky nói thêm, “Cậu nhóc này hâm mộ mấy tên đó, cô biết đấy, những kẻ nã súng. Thậm chí cậu ta có cả ảnh của chúng trong tủ đựng đồ cá nhân tại trường.”

Anh ta biết được chuyện đó một cách độc lập, hay là từ blog? Dance nhớ ai đó đã nhắc tới chi tiết này trong bài viết Những cây thập tự ven đường.

“Anh có nghĩ cậu ta là một mối đe dọa không?” O’Neil hỏi Brodsky. “Anh đã thẩm vấn cậu ta lúc nào vậy?”

“Có, thưa ngài. Tôi luôn chuẩn bị còng tay của mình sẵn sàng suốt thời gian đó. Cậu ta là một thanh niên to con và mặc chiếc áo khoác vải len có mũ trùm đầu. Chỉ nhìn chằm chằm vào tôi. Thật kỳ quái vô cùng.”

Lời miêu tả về trang phục của viên cảnh sát làm Dance nhớ lại những gì Tammy đã để lộ ra về việc kẻ tấn công cô bé mặc áo khoác có mũ trùm đầu.

Cô cảm ơn người nhân viên tuần cảnh rồi ngắt máy. Sau một khoảnh khắc, cô ngước mắt lên nhìn Boling. “Jon, anh có thêm nhận xét nào về Travis không? Từ những bài bình luận đó?”

Boling ngẫm nghĩ giây lát. “Đúng là tôi có một suy nghĩ. Nếu cậu nhóc là người nghiện chơi game như họ nói thì điều đó có thể rất quan trọng.”

O’Neil hỏi, “Ý anh là thông qua chơi những trò chơi kia, cậu ta đã được lập trình để trở nên bạo lực? Chúng ta có thể thấy một chương trình về chủ đề đó trên Discovery Channel[8] mấy tối trước.”

[8. Một kênh truyền hình cáp chuyên về các chương trình tìm hiểu, khám phá thực tế.]

Nhưng Jon Boling lắc đầu. “Một chủ đề thời thượng trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhưng nếu cậu nhóc này đã trải qua những giai đoạn phát triển tương đối bình thường trong thời thơ ấu, tôi sẽ không mấy lo lắng về chuyện đó. Phải, một số đứa trẻ có thể trở nên vô cảm với những hệ lụy của bạo lực nếu chúng thường xuyên tiếp xúc với nó theo một số phương thức - thường là thông qua thị giác - quá sớm. Nhưng tệ nhất thì điều đó cũng chỉ làm cô trở nên chai lỳ hơn chứ không thể khiến cô trở nên nguy hiểm. Xu hướng bạo lực trong giới trẻ gần như luôn xuất phát từ phẫn nộ chứ không phải vì phim ảnh hay truyền hình. Không, tôi muốn đề cập tới một chuyện khác khi nói việc chơi game có thể ảnh hưởng sâu sắc đến Travis. Đó là những thay đổi ở giới trẻ mà chúng ta đang thấy khắp nơi trong xã hội. Cậu ta có thể mất đi khả năng phân biệt giữa thế giới ảo và thế giới thực.”

“Thế giới ảo?”

“Đó là một khái niệm tôi mượn từ cuốn sách của Edward Castronova viết về chủ đề này. Thế giới ảo là cuộc sống trong các trò chơi trực tuyến và các trang web về thực tế giả, như Cuộc sống thứ hai. Chúng là những thế giới tưởng tượng huyền ảo cô bước vào thông qua máy tính của mình, PDA[9] hay một thiết bị kỹ thuật số khác. Những người thuộc thế hệ chúng ta luôn ý thức được sự phân biệt rõ ràng giữa thế giới ảo và thế giới thực. Thế giới thực là nơi cô ăn tối với gia đình cô, chơi bóng mềm[10] hoặc đi hẹn hò sau khi thoát ra khỏi thế giới ảo hoặc tắt máy tính. Nhưng những thế hệ trẻ hơn, và hôm nay tôi muốn nói đến những người đang ở tuổi hai mươi hay thậm chí ở đầu độ tuổi ba mươi, lại không nhìn ra sự khác biệt đó. Thế giới ảo ngày càng trở nên thực hơn với họ. Trong thực tế, có một nghiên cứu gần đây cho thấy gần một phần năm số người chơi trò chơi trực tuyến cảm thấy thế giới thực chỉ là chỗ để ăn và ngủ, còn thế giới ảo mới là nơi cư trú thực sự của họ.”

[9. Personal Digital Assistance: Máy hỗ trợ cá nhân kỹ thuật số.

10. Trò chơi tương tự bóng chày, chơi trên sân nhỏ hơn với quả bóng mềm, to hơn.]

Điều này khiến Dance ngạc nhiên.

Boling mỉm cười trước biểu hiện bên ngoài có phần ngỡ ngàng của nữ đặc vụ. “Ồ, trung bình một người chơi game có thể dễ dàng dành ra ba mươi giờ mỗi tuần trong thế giới ảo, và những trường hợp dành ra gấp đôi thời gian trên cũng không phải là hiếm. Có hàng trăm triệu người ít nhiều liên quan tới thế giới ảo, và hàng chục triệu người dành phần lớn thời gian trong ngày của họ cho nó. Chúng ta không phải đang nói về Pac-Mac hay Pong[11]. Mức độ sống động trong thế giới ảo thực sự đáng kinh ngạc. Cô thông qua avatar - một nhân vật đại diện cho cô, cư ngụ trong một thế giới cũng phức tạp như thế giới ta đang sống ngay lúc này. Các chuyên gia tâm lý tuổi thiếu niên đã nghiên cứu phương thức người ta tạo nên các avatar. Trên thực tế, người chơi đã sử dụng những kỹ năng nuôi dạy con cái tồn tại trong tiềm thức để hình thành nên các nhân vật của họ. Các nhà kinh tế cũng đã lao vào nghiên cứu trò chơi mạng. Cô cần học hỏi các kỹ năng để nuôi sống chính mình nếu không sẽ bị chết đói. Trong phần lớn các trò chơi cô sẽ phải kiếm tiền, một loại đơn vị tiền tệ riêng. Nhưng hiện tại thứ bảo ngân ảo đó đang được đem trao đổi lấy đô la, bảng Anh hay Euro trên eBay trong mục trò chơi của họ. Cô có thể mua hay bán các món đồ ảo, như các phép thuật, vũ khí, y phục, nhà cửa, hay thậm chí cả chính các nhân vật bằng tiền của thế giới thực. Ở Nhật Bản, cách đây chưa lâu, một số game thủ đã kiện các hacker đánh cắp những món đồ ảo từ nhà của họ trong thế giới ảo. Họ đã thắng kiện.”

[11. Tên của những trò chơi điện tử thế hệ đầu.]

Boling cúi người ra trước, và Dance một lần nữa nhìn thấy những tia sáng lóe lên trong đôi mắt và vẻ hăng hái ẩn sau giọng nói của vị giáo sư.

“Một trong những ví dụ rõ rệt nhất về sự tồn tại song song của thế giới ảo và thực là trò chơi trực tuyến nổi tiếng, World of Warcraft. Các nhà thiết kế đã tạo ra một dịch bệnh như một thứ ‘tác hại’, nghĩa là tình trạng giảm sức khỏe hay sức mạnh của nhân vật. Được gọi là ‘Máu bẩn’. Nó sẽ làm những nhân vật mạnh bị suy yếu và giết chết những nhân vật không đủ mạnh. Nhưng có một chuyện kỳ lạ xảy ra. Không ai hoàn toàn biết rõ tại sao dịch bệnh đó đã vượt ra ngoài vòng kiểm soát và tự lan rộng. Nó trở thành một cơn dịch đen ảo[12]. Các nhà thiết kế chưa bao giờ trù tính tạo ra tình trạng này. Dịch bệnh chỉ có thể được ngăn lại khi các nhân vật nhiễm phải nó chết hết hoặc thích nghi với nó. Trung tâm Kiểm soát Bệnh dịch ở Atlanta đã nghe nói đến điều này và lập hẳn một nhóm nghiên cứu sự lây lan của loại virus trên. Họ sử dụng nó như mô hình cho dịch tễ học trong thế giới thực.”

[12. Dịch bệnh khủng khiếp bùng nổ từ cuối nửa đầu thế kỷ 14, riêng ở châu Âu, ước tính cho biết dịch bệnh này đã giết chết khoảng một phần tư đến một phần ba tổng dân số.]

Boling ngả người lại sau.

“Tôi có thể kể vô số chuyện nữa về thế giới ảo. Đó là một chủ đề rất cuốn hút, nhưng chung quy cho dù Travis có bị chai lỳ trước bạo lực hay không, câu hỏi thực sự ở đây là cậu ta sống chủ yếu trong thế giới nào, ảo hay thực? Nếu là ảo, khi đó cậu ta sẽ sống cuộc sống của mình tuân theo những quy tắc hoàn toàn khác. Và chúng ta không biết chúng là gì. Báo thù những kẻ bắt nạt trên mạng, hay bất cứ ai nhục mạ cậu ta, là việc hoàn toàn có thể chấp nhận được. Thậm chí đó còn là điều chính đáng. Có thể so sánh với một kẻ tâm thần phân liệt hoang tưởng giết ai đó vì hắn thật sự tin nạn nhân là một mối đe dọa cho thế giới. Hắn không làm gì sai trái cả. Thực ra với hắn, giết người còn là hành động anh hùng. Còn Travis? Ai biết cậu ấy đang nghĩ gì? Có điều hãy nhớ cho rất có thể với cậu ta tấn công một kẻ kích bác trên mạng như Tammy Foster cũng chẳng khác gì đập một con ruồi.”

Dance ngẫm nghĩ về ý tưởng này rồi nói với O’Neil, “Chúng ta có nên tới gặp cậu ấy để nói chuyện không?”

Quyết định xem nên khởi đầu thẩm vấn một đối tượng tình nghi vào thời điểm nào luôn chứa đựng nhiều nguy cơ. Travis rất có thể chưa nghĩ bản thân là đối tượng bị tình nghi. Bắt chuyện trong lúc này sẽ làm cậu ta mất cảnh giác, và may ra khiến cậu ta buột miệng nói những điều có thể chống lại chính mình, thậm chí thú tội cũng nên. Ngược lại, cậu ta cũng có thể hủy mọi bằng chứng hoặc lẩn trốn.

Quả là nan giải.

Điều giúp cô đưa ra quyết định cuối cùng là một ký ức duy nhất. Cái nhìn trong đôi mắt Tammy Foster - nỗi sợ hãi bị trả thù. Và nỗi sợ hãi thủ phạm sẽ tấn công thêm ai khác.

Cô hiểu họ cần hành động thật khẩn trương.

“Phải. Chúng ta hãy cùng đến gặp cậu ta.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.