Harry Potter: The Girl Who Lived

Chương 4




Thế nào rồi?”, Rhyme hỏi.

Lon Sellitto gấp điện thoại lại. “Họ vẫn chưa biết”. Ánh mắt viên thám tử hờ hững liếc ra ngoài cửa sổ ngôi nhà của Rhyme, những ngón tay gõ gõ một cách vô thức lên mặt kính. Hai con chim ưng đã quay về đậu trên bậu cửa sổ nhưng vẫn giữ ánh mắt cảnh giác về phía Công viên Trung tâm, không thèm đếm xỉa gì đến tiếng động trên mặt kính phía sau.

Rhyme chưa bao giờ thấy viên thám tử chán chường như thế này. Khuôn mặt tròn trịa, lấm tấm mồ hôi của anh ta trông tái nhợt. Là một điều tra viên trọng án huyền thoại, bình thường Sellitto vẫn luôn điềm tĩnh như không trong mọi hoàn cảnh. Cho dù đang an ủi gia đình các nạn nhân hay đang tấn công không khoan nhượng vào những lỗ hổng trong những chứng cứ ngoại phạm của một kẻ tình nghi, bao giờ anh cũng tập trung toàn bộ tâm trí vào công việc trước mặt. Nhưng lúc này đây tâm trí anh dường như đang vơ vẩn cách đó vài dặm, nơi Jerry Banks đang được mổ cấp cứu – có lẽ đang hấp hối – trong một bệnh viện ở Westchester. Bây giờ là ba giờ chiều ngày thứ Bảy và Banks đã ở trong phòng mổ được một tiếng đồng hồ.

Sellitto, Sachs, Rhyme và Cooper đang ở dưới tầng một trong nhà của Rhyme, trong phòng thí nghiệm. Dellray đã ra ngoài để bảo đảm ngôi nhà an toàn đã được chuẩn bị sẵn sàng và kiểm tra xem NYPD đã phân công ai làm người giữ trẻ thay cho Banks.

Lúc ở sân bay họ đã đưa viên thám tử trẻ tuổi lên xe cứu thương – đúng chiếc xe cứu thương chở xác người thợ sơn mất tay đến. Earl, tay nhân viên pháp y, đã tạm cất đi bộ mặt khốn kiếp của mình và luýnh quýnh bắt tay vào việc để cầm dòng máu đang phun ra xối xả của Banks lại. Rồi anh ta hột tốc lái xe đưa viên thám tử xanh nhợt và bất tỉnh tới phòng cấp cứu cách đó vài dặm.

Các đặc vụ FBI ở văn phòng địa bàn White Plains đưa Percey và Hale vào trong một chiếc xe thùng bọc thép và chuyển bánh về phía nam, tới khu Manhattan, thận trọng sử dụng những biện pháp lái xe cắt đuôi an toàn. Sachs bắt tay vào lục soát hiện trường mới: cái tổ bắn tỉa, chiếc xe của người thợ sơn và phương tiện mà tên Vũ công dùng để bỏ trốn – một chiếc xe đưa thực phẩm. Nó được tìm thấy cách không xa nơi hắn đã giết người thợ sơn và nơi, theo họ đoán, hắn đã giấu chiếc xe hắn dùng để lái tới Westchester.

Rồi cô vội vàng quay lại Manhattan với những bằng chứng thu thập được.

“Chúng ta có những gì?”, Rhyme đang hỏi cô và Cooper. “Có đầu đạn súng trường nào không?”

Miệng nhay một đầu móng tay bị dập bầm máu, Sachs giải thích, “Chẳng còn sót lại gì cả. Chúng đều là đạn chạm nổ”. Trông cô có vẻ đang hoảng hốt, hai mắt đảo lia lịa như những con chim sợ hãi.

“Đó chính là cách ra tay của tên Vũ công. Không chỉ giết người một cách hiệu quả mà bằng chứng của hắn còn tự tiêu hủy.”

Sachs mở một chiếc túi nhựa ra. “Đây là những gì còn lại của một viên. Tôi cạy nó từ trên một bức tường xuống.”

Cooper dốc những thứ trong túi lên một chiếc khay sứ để kiểm tra. Anh đảo chúng tên. “Vẫn là đạn bọc đầu gốm. Áo giáp chống đạn cũng không ăn thua.”

“Thằng chó chết hạng nhất”, Sellitto lẩm bẩm rủa.

“Ồ, tên Vũ công luôn biết chế tạo dụng cụ cần thiết mà”, Rhyme nói.

Có tiếng ồn ào ngoài ngưỡng cửa và Thom dẫn hai đặc vụ FBI mặc áo giáp chống đạn vào phòng. Phía sau họ là Percey Clay và Brit Hale.

Percey hỏi Sellitto, “Cậu ấy thế nào rồi?”. Đôi mắt đen thẩm của cô nhìn quanh căn phòng, nhận ra sự lạnh lùng đang chào đón mình. Nhưng cô không hề tỏ ra bối rối. “Ý tôi là Jerry ấy.”

Sellitto không trả lời.

Rhyme lên tiếng, “Cậu ấy vẫn đang được mổ”.

Nét mặt cô ủ rũ, mái tóc còn bù xù hơn cả lúc sáng. “Tôi hy vọng cậu ấy sẽ không sao.”

Amelia Sachs quay sang nhìn Percey và lạnh lùng rít lên, “Chị làm sao cơ?”

“Tôi nói, tôi hy vọng cậu ấy sẽ không sao.”

“Chị hy vọng à?” Cô cảnh sát lừ lừ tiến lại gần người nữ phi công. Người phụ nữ lùn tịt vẫn đứng im tại chỗ trong khi Sachs tiến tới. “Không phải đã hơi quá muộn để nói thế rồi sao?”

“Cô có vấn đề gì vậy?”

“Câu đó phải là để tôi hỏi chị mới đúng. Chị đã khiến anh ấy bị bắn.”

“Này, sĩ quan”, Sellitto nói.

Percey điềm tĩnh nói, “Tôi không hề yêu cầu cậu ấy chạy đuổi theo tôi”.

“Chị đã mất mạng rồi nếu không có anh ấy.”

“Có thể. Chúng ta không thể biết được. Tôi rất tiếc là cậu ấy bị thương. Tôi…”

“Và chị tiếc đến ngần nào đây?”

“Amelia”, Rhyme quát giật giọng.

“Không, tôi muốn biết tiếc đếnmức nào. Liệu chị có đủ lấy làm tiếc đến mức hiến máu không? Đến mức đẩy xe lăn trong trường hợp anh ấy không thể đi lại bình thường được nữa? Lên đọc điếu văn trong trường hợp anh ấy chết?”

Rhyme nạt khẽ, “Sachs, bình tĩnh nào. Đó không phải là lỗi của cô ấy”.

Sachs vỗ mạnh hai bàn tay của mình, với những móng tay đaã bị nhấm toét, lên đùi và giật nảy lên. “Không phải sao?”

“Tên Vũ công đã khôn ngoan hơn chúng ta.”

Sachs nói tiếp, chằm chằm nhìn thẳng vào đôi mắt đen thẫm của Percey. “Jerry có nhiệm vụ canh chừng chị. Khi chị lao thẳng vào giữa làn đạn đó, chị nghĩ anh ấy sẽ làm gì chứ?”

“Hừ, tôi không hề nghĩ gì cả, được chưa? Tôi chỉ phản ứng thế thôi.”

“Lạy Chúa.”

“Này, sĩ quan”, Hale nói chen vào, “có thể là cô hành động tỉnh táo hơn trong những tình huống phải chịu áp lực so với một số người như chúng tôi. Nhưng chúng tôi đâu có quen với việc bị nã đạn vào người”.

“Nếu vậy thì lẽ ra chị ta phải nằm yên một chỗ. Trong văn phòng. Nơi tôi đã ra lệnh cho chị ta nằm yên.”

Dường như giọng Percey thoáng lạc đi khi cô nói tiếp. “Tôi nhìn thấy chiếc máy bay của mình đang gặp nguy hiểm. Tôi phải phản ứng. Có lẽ đối với cô cũng giống như nhìn thấy đồng đội của mình bị thương.”

Hale nói, “Cô ấy chỉ làm những gì mà bất kỳ phi công nào cũng sẽ làm”.

“Chính xác”, Rhyme tuyên bố. “Đó chính là điều tôi đang muốn nói, Sachs. Đó là cách ra tay của tên Vũ công.”

Nhưng Amelia Sachs nhất định không chịu để yên mọi chuyện như vậy. “Lẽ ra các vị phải tới ngôi nhà an toàn ngay từ đầu. Lẽ ra các vị không bao giờ nên tới sân bay làm gì.”

“Đó là do lỗi của Jerry”, Rhyme nói, càng lúc càng thấy cáu kỉnh hơn. “Cậu ấy hoàn toàn không có thẩm quyền thay đổi lộ trình.”

Sachs liếc nhìn Sellitto, người đã là cộng sự của Banks được hai năm nay. Nhưng có vẻ như anh ta cũng không định nói gì để bênh vực chàng thanh niên.

“Quả là một vinh dự từ đầu tới giờ”, Percey Clay nói một cách khô khan, rồi quay người bước về phía cửa. “Nhưng tôi phải quay lại sân bay ngay bây giờ.”

“Cái gì?”, Sachs há hốc miệng. “Chị điên à?”

“Chuyện đó là không thể được”, Sellitto lên tiếng, thoát hẳn khỏi trạng thái ủ rũ của mình.

“Ngay việc trang bị lại chiếc máy bay của tôi sẵn sàng cho chuyến bay ngày mai cũng đã đủ tệ rồi. Bây giờ chúng tôi lại còn phải khắc phục những thiệt hại vừa xong. Và vì có vẻ như tất cả những thợ cơ khí có bằng cấp trong vùng Westchester đều là một lũ hèn nên tôi sẽ phải tự mình đảm nhiệm khối lượng công việc đó.”

“Cô Clay”, Sellitto bắt đầu, “đó không phải là một ý hay đâu. Cô sẽ được an toàn trong ngôi nhà an toàn nhưng nếu ở bất kỳ nơi nào khác thì chúng tôi không thể nào bảo đảm an toàn cho cô được. Chỉ cần cô chịu ở đó đến thứ Hai, cô sẽ được…”

“Thứ Hai”, cô thốt lên. “Ôi, không. Các anh không hiểu gì cả. Kiểu gì tối mai tôi cũng phải lái chiếc máy bay đó – chuyến bay dịch vụ cho Tập đoàn U.S. Medical.”

“Cô không thể…”

“Xin hỏi một câu”, Amelia Sachs hỏi bằng giọng lạnh như băng. “Liệu chị có thể cho biết chính xác là chị còn muốn giết những ai nữa không?”

Percey bước sấn lại. Cô gằn giọng, “Mẹ kiếp, tôi mất chồng và một trong những phi công giỏi nhất của mình đêm qua. Tôi sẽ không đời nào chịu mất công ty của mình nữa. Cô không có quyền bảo tôi phải đi hay không được đi đâu. Chỉ trừ trường hợp tôi bị bắt.”

“Được rồi”, Sachs nói, và trong chớp mắt chiếc còng tay sáng loáng đã bập đánh tách vào hai cổ tay nhỏ nhắn của người phụ nữ. “Chị đã bị bắt.”

“Sachs”, Rhyme gầm lên, giận dữ. “Cô đang làm gì vậy? Thả cô ấy ra. Ngay lập tức!”

Sachs quay ngoắt lại nhìn anh, và nạt lại, “Anh là một dân thường, anh không có quyền ra lệnh cho tôi làm bất kỳ điều gì hết”.

“Tôi có thể”, Sellitto nói.

“Vậy sao?”, cô ương ngạnh nói. “Tôi đang thực hiện lệnh bắt giữ, thưa thám tử. Anh không thể ngăn tôi bắt người được. Chỉ có Chưởng lý quận mới có quyền hủy bỏ lệnh bắt giữ.”

“Tất cả chuyện vớ vẩn này là thế nào vậy?”, Percey bật ra, giọng nói kéo dài cố hữu thể hiện rõ hơn bao giờ hết. “Cô bắt tôi vì tội gì mới được? Vì là một nhân chứng ư?”

“Vì tội thiếu trách nhiệm gây nguy hiểm cho người khác, và nếu Jerry mà chết thì đó sẽ là tội vô ý gây chết người. Hoặc thậm chí là tội ngộ sát.”

Hale thu hết can đảm và lên tiếng, “Nghe này. Thực sự là tôi không hề hài lòng chút nào với cách nói chuyện của cô với cô ấy suốt cả ngày hôm nay. Nếu cô định bắt cô ấy, tôi e là cô sẽ còn phải bắt cả tôi…”

“Không thành vấn đề”, Sachs nói gọn lỏn, rồi quay sang hỏi Sellitto, “Đại úy, tôi cần mượn còng tay của anh”.

“Sachs”, Rhyme quát, “chúng ta không có thời gian cho chuyện này đâu! Tên Vũ công đang ở ngoài kia, ngay lúc này hắn đang lên kế hoạch cho cuộc tấn công tiếp theo đấy”.

“Cô bắt tôi đi”, Percey nói. “Tôi sẽ được thả chỉ sau hai tiếng cho mà xem”.

“Nếu vậy chị sẽ chết ngay sau hai tiếng mười phút nữa. Và đó hoàn toàn là việc của chị…”

“Sĩ quan”, Sellitto quát giật giọng, “cô bắt đầu quá đáng rồi đấy”.

“… nếu như chị không có thói quen kéo người khác chết cùng với mình.”

“Amelia”, Rhyme lạnh lùng nói.

Cô quay ngoắt lại nhìn anh. Hầu như lúc nào anh cũng gọi cô là “Sachs”; cách anh dùng tên riêng của cô ngay lúc này chẳng khác gì một cái tát vào mặt.

Sợi xích trên hai cổ tay xương xẩu của Percey kêu lách cách. Trên ô cửa sổ, con chim ưng vỗ cánh phành phạch. Không ai mở miệng nói câu gì.

Cuối cùng bằng một giọng rất nhẹ nhàng, Rhyme yêu cầu, “Đề nghị cô tháo còng ra và để tôi nói chuyện riêng với Percey vài phút.”

Sachs lưỡng lự. Khuôn mặt cô là một chiếc mặt nạ vô cảm.

“Xin cô đấy, Amelia”, Rhyme nói, cố gắng tỏ ra kiên nhẫn.

Không nói một lời, cô lẳng lặng tháo còng.

Tất cả mọi người lần lượt ra khỏi phòng.

Percey xoa xoa hai cổ tay rồi rút chai rượu bẹt trong túi áo ra và tu một hơi.

“Phiền cô đóng cửa lại được không?”, Rhyme bảo Sachs.

Nhưng cô chỉ gườm gườm nhìn anh rồi bước thẳng một mạch ra hành lang. Cuối cùng Hale lại là người đóng cánh cửa sồi nặng trịch lại.

Ra ngoài sảnh, Lon Sellitto gọi điện lại để hỏi thăm tình hình của Banks. Anh ta vẫn đang ở trong phòng mổ và cô y tá trực nhất định không nói thêm điều gì về tình trạng của bệnh nhân.

Sachs nhận thông tin này với một cái gật đầu rất khẽ. Cô bước lại gần khung cửa sổ trông xuống con hẻm phía sau ngôi nhà của Rhyme. Ánh sáng nhập nhoạng hắt xuống hai bàn tay Sachs và cô im lặng nhìn những móng tay sứt sẹo của mình. Cô đã phải dán băng lên hai ngón tay đã bị gặm toét ra. Thói quen, cô thầm nghĩ. Những thói quen xấu… Tại sao mình không bỏ được nhỉ?

Viên thám tử bước lại bên cạnh cô, ngước nhìn lên bầu trời xám xịt. Lại hứa hẹn thêm những cơn bão mùa xuân.

“Sachs này”, anh nói, giọng rất khẽ khàng để không ai đứng sau có thể nghe thấy. “Cô ta làm bung bét mọi chuyên, cô nàng kia ấy, đã đành là vậy. Nhưng cô cũng phải hiểu – cô ta đâu phải dân chuyên nghiệp. Sai lầm của chúng ta là để cho cô ta làm bung bét tất cả và, đúng thật, đáng lẽ Jerry không nên hành động hồ đồ như thế mới phải. Chỉ cần nghĩ đến thế thôi chứ không cần nói ra cũng đủ làm tôi đau lắm rồi. Nhưng chính cậu ấy đã làm hỏng chuyện.”

“Không”, cô nói qua hàm răng nghiến chặt. “Anh không hiểu đâu.”

“Hiểu gì cơ?”

Cô có thể nói thẳng ra không nhỉ? Những từ đó sao thật khó khăn.

“Tôi mới làm hỏng chuyện. Đó không phải là lỗi của Jerry.” Cô hất đầu về phía phòng Rhyme. “Ôi, Percey. Đó là lỗi của tôi.”

“Cô ư? Mẹ kiếp, chính cô và Rhyme mới là những người phát hiện ra việc hắn đang ở sân bay. Lẽ ra hắn đã có thể hạ gục tất cả mọi người, nếu không có hai người.”

Cô vẫn bướng bỉnh lắc đầu. “Tôi nhìn thấy… Tôi nhìn thấy vị trí của tên Vũ công trước khi hắn bắn Jerry.”

“Thì sao?”

“Tôi biết chính xác vị trí của hắn. Tôi đã nhắm bắn. Tôi…”

Ôi, chết tiệt thật. Sao mà khó khăn đến thế.

“Cô đang định nói gì vậy, sĩ quan?”

“Hắn nã một viên đạn về phía tôi… Ôi, lạy Chúa. Tôi đã chùn bước. Tôi đã nằm lăn xuống đất.” Ngón tay cô biến mất vào trong đám da đầu và cô cào mạnh đến khi cảm thấy máu rịn ra. Thôi ngay đi. Chết tiệt thật.

“Thì sao?”, Sellitto vẫn không hiểu. “Chẳng phải ai cũng nằm xuống đất tránh đạn sao? Ý tôi là có ai là không làm thế chứ?”

Trân trân nhìn ra ngoài cửa sổ, khuôn mặt bừng bừng vì hổ thẹn. “Sau khi hắn nổ súng và bắn trượt. Tôi đã có ít nhất là ba giây để bắn trả – tôi biết hắn đang bắn chế độ từng phát một. Tôi đã có thể trút vào hắn cả gắp đạn. Vậy mà tôi đã nhào xuống đất. Và rồi tôi không có đủ can đảm để đứng dậy vì tôi biết hắn đã nạp xong đạn trở lại.”

Sellitto bực bội. “Sao cơ? Cô đang áy náy vì cô không đứng dậy, ngay giữa chỗ trống trải, và ngắn bắn vào một tên xạ thủ bắn tỉa? Thôi đi, sĩ quan… Mà này, khoan đã, cô dùng súng do ngành trang bị phải không?”

“Vâng, tôi…”

“Hơn 300 thước với một khẩu Glock cỡ chín ly? Có mà trong mơ nhé.”

“Có thể tôi không bắn trúng được hắn nhưng biết đâu tôi cũng giữ cho hắn không dám ngẩng đầu lên. Nếu vậy hắn đã không kịp bắn phát cuối cùng trúng vào Jerry. Ôi, mẹ kiếp.” Cô vò chặt hai bàn tay, rồi lại chăm chú nhìn móng tay trên ngón trỏ. Máu tụ bầm đen quanh móng tay. Cô lại cào da đầu.

Màu máu đỏ tươi làm cô nhớ đến vòi máu phun ra như một làn mây bụi quanh Jerry Banks và bất giác cô lại cào mạnh hơn.

“Sĩ quan, nếu là tôi, tôi sẽ không trăn trở vì một chuyện như vậy đâu.”

Cô biết giải thích thế nào bây giờ? Những điều đang giày vò cô ngay lúc này phức tạp hơn tất cả những gì viên thám tử có thể hiểu. Rhyme là nhà hình sự học giỏi nhất New York, và có lẽ là ở cả nước Mỹ này. Sachs cũng có tham vọng, nhưng cô không bao giờ có thể sánh ngang anh ở lĩnh vực đó. Nhưng bắn súng – cũng như lái xe nhanh – là một trong những năng khiếu của cô. Cô bắn giỏi hơn hầu hết cánh đồng nghiệp cả nam lẫn nữ trong lực lượng cảnh sát, bằng cả hai tay. Sachs vẫn thường dựng những đồng xu trong trường bắn ở khoảng cách 50 thước và ngắm bắn bằng ánh sáng phản chiếu, biến những đồng xu méo mó đó thành quà tặng cho bạn bè và cô con gái đỡ đầu của mình. Lẽ ra cô đã có thể cứu được Jerry. Chết tiệt thật, thậm chí lẽ ra cô đã có thể hạ được thằng chó đẻ kia.

Cô căm hận mình khủng khiếp, căm hận Percey vì đã đẩy cô vào tình thế khó khăn này.

Và căm hận cả Rhyme nữa.

Cánh cửa bật mở và Percey hiện ra ở ngưỡng cửa. Với một cái nhìn lạnh nhạt về phía Sachs, cô gọi Hale vào trong cùng mình. Anh ta biến mất vào trong phòng và vài phút sau chính Hale là người mở cửa và nói, “Anh ấy muốn mời mọi người quay vào trong”.

Và đây là cảnh Sachs thấy: Percey đang ngồi bên cạnh Rhyme trong một chiếc ghế bành cũ mèm. Cô chợt có ý nghĩ rất lố bịch là trông họ chẳng khác gì vợ chồng.

“Chúng ta, mỗi bên sẽ nhượng bộ một chút”, Rhyme thông báo. “Brit và Percey sẽ tới ngôi nhà an toàn do Dellray bố trí. Họ sẽ tìm ai đó lo việc sửa chữa chiếc máy bay. Cho dù chúng ta có tìm được tên Vũ công hay không, tôi cũng đã đồng ý để cô ấy thực hiện chuyến bay vào đêm mai.”

“Thế nếu tôi cứ bắt giữ chị ta thì sao?”, Sachs nóng nảy thốt lên. “Cho chị ta vào phòng tạm giam?”

Cô đã đinh ninh rằng Rhyme sẽ nổ tung lên – cô đã sẵn sàng đáp trả - nhưng anh chỉ nói rất mềm mỏng, “Tôi cũng đã nghĩ về chuyện đó, Sachs. Và tôi không tin rằng đó là một ý hay. Chỉ tổ làm nhân chứng phải lộ diện nhiều hơn – tòa án, phòng tạm giam, trên đường vận chuyển. Tên Vũ công sẽ càng có thêm cơ hội thủ tiêu họ”.

Amelia Sachs phân vân rồi đầu hàng, gật đầu. Anh nói đúng, vẫn như mọi khi. Nhưng dù đúng hay sai, anh vẫn luôn làm mọi việc theo cách của mình. Cô là trợ lý của anh, chỉ thế thôi. Một nhân viên. Đó là tất cả vai trò của cô đối với anh.

Rhyme nói tiếp. “Còn đây là những gì tôi đang suy tính. Chúng ta sẽ giương một cái bẫy. Tôi sẽ cần sự giúp đỡ của anh, Lon.”

“Cứ cho tôi biết đi.”

“Percey và Hale sẽ tới ngôi nhà an toàn. Nhưng tôi muốn mọi việc diễn ra như thể họ đang tới một nơi hoàn toàn khác. Chúng ta sẽ làm cho mọi việc thật rùm beng. Thật lộ liễu. Tôi sẽ chọn một đồn cảnh sát nào đó, giả vờ như họ sẽ được đưa tới khu phòng giam trong đó để bảo đảm anh ninh. Chúng ta sẽ có một hoặc hai thông báo qua bộ đàm cho lực lượng cảnh sát trên phạm vi toàn thành phố, không cần gây nhiễu, về việc chúng ta sẽ phong tỏa con phố phía trước đồn cảnh sát vì lý do an ninh và đưa tất cả những nghi phạm đang bị tạm giam tại đó tới nhà tù của thành phố để lấy chỗ cho các nhân chứng này. Nếu chúng ta gặp may, kiểu gì tên Vũ công cũng sẽ nghe trộm sóng bộ đàm của cảnh sát. Còn không, giới truyền thông cũng sẽ đánh hơi được và rất có thể hắn sẽ nghe qua cách đó.”

“Đồn cảnh sát Hai mươi được không?”, Sellitto gợi ý.

Đồn Cảnh sát Hai mươi, bên khu Upper West Side, chỉ cách ngôi nhà của Lincoln Rhyme vài khối nhà. Anh cũng biết nhiều nhân viên cảnh sát ở đây.

“Được rồi, tốt lắm.”

Lúc này Sachs mới nhận thấy vẻ gì đó bứt rứt trong mắt Sellitto. Viên thám tử cúi người về phía ghế của Rhyme, mồ hôi rịn ra thành giọt trên vầng trán rộng và nhàu nhĩ. Bằng một một giọng mà chỉ Rhyme và Sachs có thể nghe thấy, anh thì thầm, “Anh chắc về chuyên này chứ, Lincoln. Ý tôi là, anh đã nghĩ kỹ chưa?”.

Ánh mắt Rhyme khẽ liếc về phía Percey. Một cái nhìn thoáng lướt qua giữa hai người. Sachs không hiểu điều đó có nghĩa là gì. Cô chỉ biết là cô không thích nó chút nào.

“Rồi”, Rhyme nói, “Tôi chắc chắn.”

Mặc dù Sachs có cảm giác anh không hề chắc chắn.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.