Góc Khuất

Chương 4: Một đường gió tuyết (hạ)




Đêm trừ tịch, theo lệ thường các phi tần không được phép thị tẩm, thế nhưng suốt ba ngày liền sau đó, Huyền Lăng đêm nào cũng nghỉ lại Cảnh Xuân điện, An Lăng Dung lập tức trở thành nhân vật nổi bật nhất trong Tử Áo Thành.

Thái hậu hay tin thì rất bất mãn, gọi Huyền Lăng tới nhắc nhở. Huyền Lăng chỉ cười, nói: “Mẫu hậu không cần lo lắng, Dung Nhi có bài học lần trước rồi, quyết không dám làm việc gì thiếu suy nghĩ nữa đâu. Huống hồ thiên tượng thường xuyên biến hóa, như lời mẫu hậu từng nói đó, lẽ nào ách vận mãi vẫn không lui sao?”

Thái hậu bị ốm lâu ngày thân thể mỏi mệt, chỉ đành thở dài. “Con hãy cẩn thận, đừng để như Phó Như Kim nữa là được, nhớ bảo Thục phi và Kính Phi dạy dỗ cô ta thêm một chút.”

Hôm ấy, chúng tôi ngồi trò chuyện trong Đường Lê cung, Kính Phi khi nhắc tới chuyện này không kìm được cười gượng. “Rõ ràng là Hoàng hậu một tay cất nhắc, làm gì tới lượt ta dạy dỗ cô ta!”

Tôi cúi đầu mân mê chiếc lò sưởi cầm tay, hờ hững nói: “Đâu chỉ có thế, nếu cứ tiếp tục thế này, chỉ e sau này sẽ là cô ta dạy dỗ chúng ta ấy chứ.”

My Trang cầm chén trà lên khẽ nhấp một ngụm, cất giọng lạnh lùng: “Thật đáng tiếc, ta đang có thai không tiện ra ngoài lúc trời lạnh, thành ra bỏ lỡ mất vở kịch hay này. Có điều nghe các cung nhân kể lại sống động như thật, ta cũng có thể tưởng tượng ra được tình hình khi đó như thế nào.” Hơi dừng một chút, tỷ ấy khẽ nở nụ cười. “Chỉ e Uẩn Dung phải tức đến hộc máu mất.”

“Tỷ tỷ nói đùa rồi!” Tôi hơi cau mày, trầm ngâm nói: “Tình hình cứ tiếp diễn thế này, chắc chẳng bao lâu nữa An Lăng Dung sẽ được phong Phi. Tam phi bây giờ vẫn còn trống một vị trí, nếu như An Lăng Dung có thể trở thành Phi tử chính nhị phẩm trước Hồ Uẩn Dung, sợ là Hồ Uẩn Dung sẽ sinh lòng muốn ăn tươi nuốt sống cô ta luôn ấy chứ!”

Kính Phi cả kinh, không kìm được đứng bật dậy, ngay sau đó liền phát hiện mình hơi thất thố, vội vàng ngồi xuống. “Phong Phi? Chắc không thể nào đâu!”

My Trang hơi ngước mắt lên. “Chỉ cần Hoàng thượng muốn, có việc gì là không thể? Nghe nói trong năm nay, Diễm Quý nhân lại sắp được tấn phong nữa đấy.”

Kính Phi gượng cười, nói: “Hồ Chiêu nghi xưa nay vẫn luôn tâm cao khí ngạo, ngoài Hoàng hậu và Thẩm Thục viện ra thì không để ai vào trong mắt. Bây giờ An Lăng Dung đã ngang vai ngang vế với cô ta, nếu sau này lại ở trên cô ta nữa, cô ta không tức điên lên mới là lạ.”

Tôi đưa mắt liếc nhìn Kính Phi. “Muội xem ghi chép ở Kính sự phòng rồi, mười một ngày nay An Lăng Dung rất được ân sủng, Hồ Chiêu nghi thì liên tục bày trò làm nũng, thành ra phần lớn thời gian Hoàng thượng đều ở chỗ hai người bọn họ.”

Cái thai của My Trang giờ đã lớn, không thể ngồi thẳng người quá lâu, lúc này chỉ đành tựa lưng vào chiếc gối mềm kê sẵn phía sau rồi mới ung dung nói: “Bọn họ có đối chọi gay gắt cũng chẳng sao, Hoàng thượng nếu muốn đối xử công bằng với cả hai thì chỉ cần phong cho Hồ Chiêu nghi làm Phi nữa là được rồi.”

Tôi ngẩn ra. “Tam phi đã có hai người rồi, lẽ nào lại phải vì cô ta mà phá vỡ quy củ hay sao?”

Ngoài trời tuyết rơi lả tả, nụ cười bên khóe môi My Trang lúc này lạnh hệt như băng tuyết. “Cũng không cần phải vậy. Đoan Phi và Phùng tỷ tỷ đều vào cung đã lâu, phong làm Phu nhân cũng không sao cả.” Kính Phi bất giác hơi biến sắc, My Trang lập tức cười, nói tiếp: “Muội biết tỷ tỷ ngại việc Ngọc Ách phu nhân và Tích Hoa phu nhân đều không có kết cục tốt, nhưng chuyện gì cũng có hai mặt, lẽ nào chỉ bởi vì hai tội nhân mà trong cung vĩnh viễn không bao giờ lập Phu nhân nữa hay sao?”

Kính Phi cúi đầu không nói, tôi vừa bóc quýt vừa chậm rãi nói: “Tỷ tỷ đang có thai tất nhiên không thể lao tâm lao lực quá, muội và Kính Phi tỷ tỷ thì phải lo liệu việc trong cung, cũng không thể không kiêng dè Hoàng hậu, hiện giờ thực chẳng thể làm gì cô ta được.”

My Trang bây giờ cả ngày không bước chân ra khỏi cửa, do đó ăn mặc rất giản dị, trên đầu chỉ cài duy nhất một cây trâm bạc, bên trên đính một viên trân châu to bằng ngón tay út, tỏa ra những tia sáng dìu dịu. Tỷ ấy hơi cau mày, nói: “Các phi tần trong cung có đắc sủng thì cũng phải có thất sủng, ngay từ năm xưa cô ta đã chuẩn bị sẵn cho ngày Đông Sơn tái khởi bây giờ rồi, đủ thấy tâm kế rất sâu, không dễ gì lật đổ, muội nhất định đừng tùy tiện ra tay.”

Tôi khẽ nở nụ cười, cùng Kính Phi đưa mắt nhìn nhau. Phía sau nụ cười đôn hậu, Kính Phi để lộ ra một tia nghiêm túc, khẽ nói: “Chúng ta tất nhiên không thể ra tay được.” Khóe miệng nàng ta hơi nhếch lên, trỏ tay về ô cửa sổ phía nam. “Nhưng còn có Hồ Chiêu nghi nữa cơ mà.”

My Trang hôm nay vận một bộ cung trang màu xanh nhạt, bên trên có thêu bức hình đàn bướm vờn hoa, trông chan chứa đầy xuân ý. “Nàng ta cũng thực là lỗ mãng, chẳng lẽ lại không biết nể mặt Hoàng hậu chút nào sao?”

Tôi không nói gì, chỉ đứng dậy nhìn cảnh tuyết rơi bên ngoài cửa sổ, Kính Phi thì ngập ngừng nói: “Hồ Chiêu nghi nổi cơn ghen như vậy, ta thấy chưa chắc chỉ là ghen với An Lăng Dung. An thị rõ ràng là người của Hoàng hậu, vậy mà Hồ Chiêu nghi còn chẳng nể mặt Hoàng hậu chút nào, chỉ sợ...”

Tôi lướt nhẹ ngón tay trên khung cửa sổ trổ hoa, tâm trạng dần bình tĩnh trở lại, nhẹ nhàng nói: “Tỷ tỷ, đây không phải việc mà chúng ta có thể quản được, cứ đứng một bên nhìn là được rồi.”

Tháng Giêng cứ thế trôi qua trong sự bận rộn và náo nhiệt, hôm nay là mùng Một tháng Hai, cũng chính là ngày An Lăng Dung được sắc phong làm Chiêu viện. Chiêu viện là một trong Cửu tần, thuộc hàng tòng nhị phẩm, An Lăng Dung có thể nhảy vọt lên vị trí này, ngang hàng với Lữ Chiêu dung đã sinh được Hoàng trưởng nữ và Hồ Chiêu nghi xuất thân cao quý, thực là một niềm vinh hạnh to lớn vô cùng.

Hoán Bích cười lạnh, nói: “Cô ta dung mạo không phải là hạng nhất, gia thế lại tầm thường như vậy, còn chưa sinh nở lần nào, không ngờ cũng leo được tới ngôi Cửu tần, đúng là chẳng dễ dàng gì.”

Tôi cầm chiếc vòng phỉ thúy để trong chiếc hộp gấm trên bàn lên soi trước ánh mặt trời, hơi nhếch khóe môi, nói: “Đúng là chẳng dễ dàng gì, năm xưa mười lăm phi tần cùng nhau vào cung, bây giờ người thì chết, người thì bị phế, những người còn sót lại gần như đều thất sủng cả, ngoài ta và My Trang tỷ tỷ ra, chỉ còn có cô ta là vẫn đắc sủng thôi.”

Khóe mắt Hoán Bích thoáng lộ vẻ xem thường. “Để đạt được địa vị hôm nay, tiểu thư đã phải nếm trải biết bao khó khăn, vất vả, lại phải nhờ vào các vị công chúa và hoàng tử mới ngồi vững được vị trí, còn cô ta chỉ dựa vào việc quyến rũ Hoàng thượng, không ngờ cũng có thể làm được Chiêu viện như bây giờ.”

Tôi ngồi xuống bên cạnh cửa sổ, Hoán Bích buông tấm rèm làm bằng gấm đỏ xuống, căn phòng lập tức u ám đi mấy phần.

Tôi đặt chiếc vòng trở lại trong hộp, tùy tiện để tay trên bàn. “Đây chính là bản lĩnh của cô ta. Bao nhiêu năm trôi qua mà Hoàng hậu vẫn chịu nâng đỡ cô ta như thế, quả thực là không đơn giản chút nào.”

Hoán Bích cười lạnh không ngớt, khẽ phỉ phui một tiếng: “Không phải chỉ là một mực giả bộ đáng thương thôi sao, thế mà Hoàng thượng lại cứ thích cô ta quá thể.”

Tôi cười nhạt, nói: “Hoàng thượng? Đổi lại là bất cứ nam nhân nào khác trong thiên hạ cũng đều như vậy cả thôi.”

Hoán Bích nghe tôi nói vậy thì bất giác ngây ra, một hồi lâu chẳng nói năng gì.

Mãi sau muội ấy mới chú ý tới chiếc hộp gấm trên bàn, kêu lên “úi chao” một tiếng, nói: “Không phải tiểu thư vẫn luôn cất kĩ chiếc vòng này sao, sao bây giờ tự dưng lại lấy ra vậy?”

Tôi đưa mắt liếc chiếc vòng phỉ thúy đó. “Thứ này là do nước Ác Nam tiến cống từ lần trước, Hoàng thượng thưởng cho ta, đến giờ ta vẫn chưa từng đeo lần nào. Điều hiếm có là nó mang màu xanh biếc, lại có đường vân rất đẹp, những thứ như thế này bây giờ đã rất hiếm.” Dừng một chút, tôi mỉm cười, nói tiếp: “Đợi lát nữa muội hãy gói lại cẩn thận rồi đích thân mang tới Cảnh Xuân điện tặng cho cô ta giúp ta.”

Hoán Bích ghé lại gần xem, đoạn lắc đầu, nói: “Chiếc vòng này tất nhiên là rất đẹp, nô tỳ vào cung cũng khá lâu rồi, thấy hình như chỉ có món quà mà Đoan Phi tặng cho Ôn Nghi Công chúa năm xưa là có thể sánh với nó. Có điều đó là đồ tùy giá của Đoan Phi nương nương, không phải vật trong cung. Bây giờ phỉ thúy mà nước Ác Nam tiến cống năm sau không bằng năm trước, đồ tốt gì cũng ít đi nhiều, thế mà tiểu thư lại định tặng chiếc vòng này cho cô ta, nô tỳ thấy thực là đáng tiếc.”

Tôi vừa ngoảnh đầu qua nhìn muội ấy, chợt thấy Huyền Lăng tươi cười vui vẻ bước vào, cất giọng sang sảng nói: “Cái gì mà đáng tiếc với không đáng tiếc thế? Nói trẫm nghe nào!”

Tôi vội vàng đứng dậy, dẫn Hoán Bích đi tới thỉnh an rồi mới cười, nói: “Lũ nô tài bên ngoài thực là không hiểu chuyện, thấy Hoàng thượng tới mà không biết thông báo một tiếng.”

Huyền Lăng nói: “Trẫm cứ ngỡ là lúc này nàng còn đang ngủ trưa, nên mới dặn dò bọn họ đừng đánh thức nàng. Không ngờ chủ tớ các nàng lại đang rủ rỉ trò chuyện với nhau.” Rồi y cất giọng trìu mến: “Ngay từ sáng sớm đã phải bận rộn chuyện sắc phong cho Dung Nhi, chắc nàng cũng mệt lắm rồi.”

Hoán Bích bưng trà và bánh ngọt điểm tâm tới, tôi ngồi xuống cùng y, sau đó mới nói: “Cũng không có gì là mệt cả, An muội muội được tấn phong, thần thiếp là người làm tỷ tỷ cũng vui mừng thay cho muội ấy, do đó vừa rồi mới kêu Hoán Bích đi tìm đồ giúp.” Nói rồi bèn đưa chiếc vòng ngọc phỉ thúy kia cho Huyền Lăng. “Hoàng thượng thử nhìn xem thứ này thế nào!”

Huyền Lăng đón lấy, đưa lên trước ánh sáng chăm chú nhìn một lát, đôi hàng lông mày bất giác hơi nhướng lên. “Đây hình như là thứ trẫm thưởng cho nàng lần trước.”

Tôi đưa mắt liếc y, khẽ mỉm cười, nói: “Hoàng thượng có trí nhớ tốt quá!”

Y tò mò hỏi: “Không phải nàng vẫn luôn không nỡ đeo sao, tự dưng lại mang nó ra làm gì vậy?”

Tôi khẽ cười, nói: “Chính vì thần thiếp không nỡ đeo, do đó mới kêu Hoán Bích lấy nó ra để làm quà cho An muội muội.” Tôi cúi xuống, vừa nói vừa khẽ vuốt ve chiếc vòng. “An muội muội vừa được tấn phong làm Chiêu viện, quà tặng cũng cần trang trọng một chút mới được. Vừa rồi Hoán Bích cũng nói một chiếc vòng ngọc phỉ thúy đẹp thế này, nếu cứ để yên một chỗ mãi thì quá ư đáng tiếc.”

Dứt lời tôi bèn đưa mắt nhìn sang Hoán Bích, thấy muội ấy hơi cụp mắt xuống, xoay người ra ngoài, cho thêm hương vào trong lò, sau đó liền buông thõng hai tay đứng lặng lẽ bên ngoài.

Huyền Lăng không hề phát giác, nghe thấy lời của tôi thì tỏ ra ngạc nhiên. “Tự nàng không nỡ đeo, sao lại mang đi tặng cho nàng ấy làm gì?” Rồi lại cười, nói: “Dung Nhi được phong làm Chiêu viện, Hoàng hậu đã thưởng cho nàng ấy không ít đồ rồi, mà riêng đồ từ phủ Nội vụ đưa tới cũng đã đủ hậu hĩnh.”

Tôi mỉm cười, nhón một quả mơ lên đưa tới bên miệng Huyền Lăng, nói: “An muội muội có nhiều đồ trang sức là một chuyện, tâm ý của thần thiếp lại là chuyện khác, có điều chiếc vòng này dù sao cũng là đồ mà Hoàng thượng thưởng cho, do đó thần thiếp mới phải xin ý kiến của Hoàng thượng.”

Y vui vẻ ngậm quả mơ đó vào miệng, hơi cau mày, nói: “Chua quá!” Rồi lại khẽ cười. “Đâu phải là nàng không có đồ tốt, thế mà lại mang đồ trẫm lén thưởng cho nàng đi tặng người khác, thực là nhỏ mọn quá chừng. Nàng còn nhớ chứ, chiếc vòng này không được ghi vào sổ đâu đấy.”

Tôi che miệng khẽ cười. “Chính vì biết như vậy nên thần thiếp mới dám mang đi tặng chứ, bằng không dù có mười lá gan thần thiếp cũng chẳng dám làm việc này.” Dứt lời tôi liền ngưng cười, lúng liếng đưa mắt nhìn y. “Những thứ coi được của thần thiếp đều do Hoàng thượng ban thưởng cho cả, tự bản thân thì đâu có thứ gì đáng để lấy ra đâu.”

Huyền Lăng đưa tay vuốt ve cổ tay tôi, mỉm cười, nói: “Trẫm thấy trước đây nàng có đeo một chiếc vòng san hô, màu đẹp mà kiểu dáng cũng đẹp nữa, hiếm có nhất là mỗi viên san hô đều căng tròn, làm tôn lên làn da trắng như tuyết của nàng, thực là không tệ chút nào.”

Tôi biết y đang nói tới món quà mừng Huyền Thanh tặng tôi trong ngày tôi được phong làm Thục phi, trái tim bất giác nhói đau, nhưng ngoài mặt vẫn phải làm bộ bình thản, còn cất tiếng cười khúc khích, nói: “Hoàng thượng nói đến chiếc vòng đó ư, thần thiếp nhớ nó là món quà mà lục Vương gia đưa tặng trong ngày thần thiếp được phong làm Thục phi thì phải. Thứ ấy quả đúng là rất đẹp, nhưng thường ngày Hoàng thượng thưởng cho thần thiếp không ít đồ tốt, thành ra thần thiếp cũng chỉ đeo nó trong mấy hôm đầu vì thấy mới mẻ, về sau liền kêu Hoán Bích cất nó đi, bây giờ nghĩ lại thấy thật là có lỗi với tâm ý của lục Vương gia quá!” Tôi cười tủm tỉm, nhìn y chăm chú. “Hoàng thượng mà không nói, chắc thần thiếp đã quên mất là mình còn có một chiếc vòng như thế rồi. Tiếc là san hô chẳng phải thứ gì quý báu cả, ngoài ra An muội muội còn rất thích phỉ thúy, mang chiếc vòng phỉ thúy này đi làm quà chắc sẽ hợp ý muội ấy hơn. Mà Hoàng thượng cũng thật là, không ngờ lại thay An muội muội đi nghĩ tới những món đồ khác của thần thiếp như thế đấy.”

“Trẫm chẳng qua chỉ nói có một câu thôi, không ngờ lại nhận lại được một tràng dài, nghe cứ như là trẫm chỉ thương Dung Nhi chứ không thương nàng vậy.” Huyền Lăng ôm tôi vào lòng, âu yếm nói: “Nàng rộng rãi như vậy quả là hiếm có. Dung Nhi xuất thân không cao, lá gan lại nhỏ, trong cung có quá nhiều phi tần không thích nàng ấy, may mà Hoàng hậu còn chịu xót thương nàng ấy một chút. Suốt bao năm nay, chỉ duy có nàng là vẫn luôn đối tốt với nàng ấy, coi nàng ấy như tỷ muội, điều này lại càng hiếm có hơn.” Dứt lời, y khẽ thở dài một tiếng, dáng vẻ cảm khái vô cùng.

Tôi nhìn lướt qua thân thể y một chút, cúi đầu, nói: “Có thể cùng hầu hạ Hoàng thượng vốn là duyên phận của tỷ muội thần thiếp. An muội muội và thần thiếp vào cung cùng năm, quan hệ xưa nay vẫn luôn không tệ, sao thần thiếp có thể vì chuyện gia thế chênh lệch mà làm tổn hại tới tình tỷ muội chứ!”

Huyền Lăng khẽ vuốt ve bờ vai tôi, dịu dàng nói: “Nàng trước giờ vẫn luôn thấu hiểu lòng người, đó chính là chỗ đáng quý nhất của nàng.”

Tôi mỉm cười điềm đạm, lặng lẽ tựa đầu vào bờ vai y không nói năng gì, nhưng bàn tay thì lại nắm chặt lấy chiếc khăn tay, chừng như muốn bóp nát nó ra.

Cùng dùng bữa tối xong, Huyền Lăng sai nhũ mẫu bế Dư Hàm và Linh Tê tới. Chơi đùa với hai đứa bé được một lúc, thấy chúng đã có vẻ buồn ngủ, y mới sai nhũ mẫu bế chúng về cho đi ngủ.

Giữa đêm gió nổi bốn bề, chuông gió ngoài hiên vang lên đinh đang không ngớt. Chừng một tuần trà sau, trời bắt đầu đổ mưa rả rích, hồ nước trước Nhu Nghi điện bị nước mưa rơi xuống làm nổi lên những gợn sóng lăn tăn, lại được ánh đèn sáng trưng chiếu tới, khiến người ta có cảm giác như đang ngắm cảnh lúc ban ngày.

Tiểu Doãn Tử vội vàng bước vào bẩm báo: “Vì trời mưa, thái giám trong cung của Hoàng hậu đến truyền lệnh rằng Hoàng hậu sợ trời mưa đường trơn, các cung đều phải thắp đèn nhiều một chút.”

Tôi nghe thế thì chỉ im lặng không nói, Huyền Lăng vốn đang nói chuyện với tôi, nghe nói là trời mưa thì liền đưa mắt nhìn ra ngoài, sau đó cười, trách cứ: “Đúng là hồ đồ quá thể! Trời đang mưa thế này mà lại sai thắp đèn sáng lên, chẳng còn gì là thú vị nữa cả.”

Tiểu Doãn Tử vội đáp “dạ” một tiếng, tôi không kìm được bật cười. “Còn dạ cái gì nữa? Mau đi bỏ bớt một nửa số đèn xuống cho ta. Nếu sợ trời mưa đường trơn, cứ thắp nhiều đèn một chút ở mấy chỗ tối tăm trơn trượt dễ ngã là được rồi.”

Chẳng bao lâu sau đèn đã bị bỏ xuống quá nửa, khung cảnh lập tức trở nên mờ ảo mông lung, ngay đến những hạt mưa cũng đượm nét dịu dàng. Huyền Lăng nhìn tôi, cười nói: “Như thế này mới đúng là cảnh mưa đêm chứ!”

Tôi đưa tay che miệng cười khẽ. “Hoàng hậu cũng vì có lòng tốt nên mới ra lệnh vậy thôi. Có điều thắp đèn sáng trưng lên như ban ngày thứ nhất là tiêu tốn tiền bạc trong cung, thứ hai là chưa chắc đã có thể làm giảm bớt số người bị ngã. Kỳ thực chỉ cần treo thêm mấy ngọn đèn lồng ở những góc tối tăm là cũng đủ rồi.” Dừng một chút, tôi lại tiếp: “Không phải thần thiếp nhỏ mọn, nhưng sau cơn mưa xuân này dân chúng sắp bắt đầu gieo hạt cày cấy rồi, chỗ dầu nến tiết kiệm được ở trong cung chúng ta có thể dùng để trợ giúp phần nào cho trăm họ.”

Huyền Lăng bất giác lộ ra một tia tán thưởng. “Hoàng hậu cứ luôn như vậy, vẫn là Hoàn Hoàn nàng tinh tế hơn.”

Tôi hơi khom người, dịu dàng cười, nói: “Mưa xuân quý như dầu, Hoàng thượng lại chịu xót thương dân chúng, ấy chính là cái phúc lớn của thiên hạ. Chắc hẳn khi lên triều, Hoàng thượng sẽ có thể ung dung trị nước, không gặp phải chuyện khó khăn nào.”

Y gật đầu, nhìn tôi trìu mến. “Vẫn là nàng hiểu tâm ý của trẫm.” Hơi dừng một chút y lại tiếp: “Một đêm đẹp như thế này mà vừa rồi lại bị ánh đèn sáng trưng làm hỏng hết cả, thực chẳng khác gì bò nhai hoa mẫu đơn.”

Tôi nghiêng đầu cười khẽ. “Giữa đêm mưa rả rích, nên làm việc gì cho xứng với thời khắc tươi đẹp bây giờ đây?” Huyền Lăng nắm lấy bàn tay tôi, nói: “Lò nhỏ đất hồng pha, nên chăng một chén khà[38]?”

[38] Đây là hai câu trong bài Vấn Lưu thập cửu của Bạch Cư Dị, dịch thơ Lê Nguyễn Lưu. Toàn bài: Rượu nguyên tăm lục sủi, lò nhỏ đất hồng pha. Chiều xuống trời rơi tuyết, nên chăng một chén khà? Nguyên văn hán Việt: Lục nghị tân phôi tửu, hồng nê tiểu hoả lô. Vãn lai thiên dục tuyết, năng ẩm nhất bôi vô? - ND.

Tôi bật cười khúc khích, đưa tay khẽ nhéo mũi y một cái. “Chiều xuống trời rơi tuyết, hâm rượu nói chuyện đêm, quả đúng là hợp cảnh.”

Huyền Lăng mỉm cười khe khẽ, ánh mắt chăm chú nhìn khuôn mặt tôi. “Trẫm rất thích nhìn cái bộ dạng yêu kiều uể oải, nửa tỉnh nửa say của nàng.”

Tôi xoay người lại, dõi mắt nhìn những đốm xanh non mới nhú ngoài sân, đưa tay ra đón lấy mấy hạt mưa li ti nhỏ xíu, cảm thấy hơi giá lạnh. Một lát sau, tôi đứng bên cạnh y, ngoảnh đầu qua, cười nói: “Không phải là Hoàn Hoàn không dám uống rượu, có điều hôm nay dù sao cũng là ngày vui của An muội muội, tứ lang nên tới chỗ An muội muội mới phải, lẽ nào lại muốn say lướt khướt trong Nhu Nghi điện của Hoàn Hoàn hay sao?”

Huyền Lăng không nhắc tới chuyện này nữa, chỉ nói: “Một đêm mưa đẹp thế này, không thể tùy tiện bỏ phí được.” Sắc mặt ngợp nét dịu dàng, y nhìn tôi, nở một nụ cười ấm áp như làn gió xuân. “Giữa một phen cảnh sắc thế này mà được nghe đàn thì đúng là không gì hơn được.”

Tôi nghe thế bèn quay sang ra lệnh cho Hoán Bích: “Đi lấy cây đàn Phượng ngô của bản cung lại đây.”

Huyền Lăng đưa tay ngăn lại: “Như vậy thì không ổn.”

Tôi không kìm được thở dài một tiếng, giọng nói vẫn rất mực bình thản, nhẹ nhàng: “Đi lấy Trường tương tư lại đây.” Nói rồi bèn tươi cười nhìn Huyền Lăng. “Hoàng thượng của chúng ta kén chọn lắm, không dễ gì mà ứng phó qua quýt được đâu.”

Huyền Lăng ghé lại gần tôi, nở nụ cười phong lưu bên khóe miệng. “Nàng định ứng phó qua quýt với trẫm sao?” Dứt lời liền đưa tay tới.

Tôi xoay người chạy vọt đi, tươi cười, nói: “Hoàn Hoàn chẳng qua chỉ không muốn bỏ phí một buổi đêm tươi đẹp mà thôi!”

Y đưa tay tới mà không bắt được tôi, liền nói: “Nha đầu, nàng chạy cũng nhanh thật đấy!”

Tôi bật cười. “Tứ lang quên là Hoàn Hoàn giỏi múa sao, tuy giờ đã là mẹ của ba đứa con nhưng còn chưa tới mức không né tránh được. Tứ lang rốt cuộc là coi thường Hoàn Hoàn hay là chỉ nhớ tới điệu múa của An muội muội thôi đây?”

Y cười sang sảng, nói: “Nhìn bộ dạng ghen tuông của nàng kìa, trẫm làm sao dám coi thường nàng chứ. Được rồi, ngồi xuống đàn một khúc đi, trẫm không quấy rầy nàng nữa là được.”

Ngoài trời mưa rơi rả rích, trong phòng chan hòa ánh nến màu vàng cam, vô cùng ấm áp. Tôi gảy đàn không hề nhập tâm, chỉ cúi đầu lướt nhẹ hai bàn tay trên những sợi dây đàn. Huyền Lăng ngồi bên cạnh, tựa hờ người vào chiếc án ngọc gần kề, vừa lắng nghe tiếng đàn vừa uống rượu hoa quế.

Thứ rượu đó không mạnh, còn có vị ngọt thơm nên uống rất thoải mái, tôi không hề lo rằng y sẽ uống say.

Thời gian cứ thế lặng lẽ trôi, trời thì mưa rả rích, tiếng đàn vang lên tản mạn, còn người bên cạnh tôi thì cứ tự rót tự uống một mình.

Mấy sợi tóc khẽ mơn man trên mặt, giống hệt những ngón tay của y, mang tới cảm giác hơi giá lạnh, nhưng đồng thời còn có mấy tia ngọt ngào, ấm áp. Lòng tôi xao xuyến không thôi, những chuyện cũ từ mấy năm trước trào dâng không ngớt, tựa như vô số sợi lông vũ mềm mại lướt qua lãng đãng.

Trong lúc tâm thần ngơ ngẩn, tôi tiện tay gảy bài Bắc phong:

Lạnh buốt thổi mấy luồng gió bấc, mưa tuyết bay chiếu đặc khắp trời. Cùng ta thân ái những người, nắm tay dắt díu cùng rời khỏi đây. Sao lại còn khoan thai lần lữa? Nguy loạn đà sắp sửa gấp rồi.

Gió bấc thổi mấy luồng vi vút, mưa tuyết vừa bay trút tơi bời. Cùng ta thân ái những người, dắt tay về hẳn mau rời khỏi đây. Sao lại còn khoan thai lần lữa? Nguy loạn đà sắp sửa gấp rồi.

Chẳng phải chồn không gì là đỏ, chẳng phải quạ không phải sắc đen. Cùng ta những kẻ thuộc quen, chung xe dắt díu bỏ miền này đây. Sao lại còn khoan thai lần lữa? Nguy loạn đà sắp sửa gấp rồi.

Khúc nhạc tấu xong, tôi hãy còn chưa phát giác thì Huyền Lăng đã vỗ tay cười, nói: “Hoàn Hoàn, lâu lắm rồi trẫm chưa nghe nàng gảy đàn, không ngờ cầm nghệ của nàng bây giờ lại tiến bộ như vậy, thật khiến người ta phải giật mình tán thán.”

Tôi vội vàng kéo mình trở về với thực tại, tỏ vẻ khiêm tốn nói: “Thần thiếp đâu có gì là tiến bộ đâu, chẳng qua là lâu ngày thành quen mà thôi. Hoàng thượng quá khen rồi!”

Huyền Lăng trỏ Hoán Bích, cười nói: “Nàng nhìn bộ dạng Hoán Bích kìa, chỉ từ đó thôi cũng đủ biết là trẫm không hề quá khen.”

Tôi ngoảnh đầu qua, thấy Hoán Bích quả nhiên đang đứng ngẩn ngơ bên cây cột trong điện, hai tay ôm theo chiếc áo choàng của tôi, chẳng biết đã trầm tư như thế từ bao giờ.

Huyền Lăng tò mò hỏi: “Trẫm rất ít khi nghe thấy nàng gảy khúc nhạc này, hôm nay sao tự dưng lại nghĩ tới nó vậy?”

Tôi mỉm cười, đáp: “Vừa rồi tứ lang không phải có nhắc tới cảnh tượng “chiều xuống trời rơi tuyết” sao, do đó Hoàn Hoàn mới gảy bài Bắc phong phất phơ gió tuyết này cho hợp cảnh.”

Huyền Lăng thoáng trầm ngâm một chút, trong mắt lộ ra một tia dịu dàng, còn đượm nét mê say. “Lời của trẫm, không ngờ nàng lại ghi nhớ vào lòng như thế.”

Tôi hơi nghiêng đầu một chút, vừa như trả lời y lại vừa như tự hỏi mình: “Thần thiếp có lúc nào mà không ghi nhớ hay sao chứ?”

Đang lúc nói cười, Lý Trường chợt bước tới cung kính cất tiếng bẩm: “Hoàng thượng, thời gian không còn sớm nữa, người có qua Cảnh Xuân điện không ạ?”

Huyền Lăng khẽ gật đầu, đưa tay đón lấy chiếc áo choàng từ trong tay Hoán Bích, khoác lên người cho tôi, dịu dàng nói: “Nửa đêm trời lạnh, nàng nhớ nghỉ ngơi sớm một chút.”

Tôi làm như không nghe thấy, cũng không đứng dậy đưa tiễn y, chỉ lẳng lặng gục người trên cây đàn, thỉnh thoảng lại gảy nhẹ dây đàn làm phát ra một tiếng “tưng” lạnh lẽo. Tiếng đàn của Trường tương tư nghe thật hay biết mấy, cứ hệt như là... đang thổ lộ những nỗi tương tư vô biên vô tận.

Huyền Lăng thấy tôi không trả lời, liền bước lại gần, khẽ gọi: “Hoàn Hoàn.” Tôi hững hờ đáp lại một tiếng, y đặt tay lên cánh tay đang lõa lồ bên ngoài của tôi. “Hoàn Hoàn?”

Tôi ngạc nhiên ngẩng lên, khẽ kêu “a” một tiếng, buồn bã thẫn thờ hỏi: “Tứ lang đang gọi thiếp đó sao?”

Chợt có một làn gió nhẹ thổi tới, mấy hạt mưa nhỏ li ti theo đó hắt lên mặt tôi, chẳng khác gì nước mắt. Y ngồi xuống bên cạnh tôi, cất giọng dịu dàng: “Đêm nay trời lạnh, trẫm sẽ ở lại đây nghỉ ngơi cùng nàng.”

Lý Trường đứng một bên nhắc nhở: “Hoàng thượng...”

Tôi dường như nhớ lại việc gì, liền đứng dậy, nói: “Không phải Hoàng thượng cần tới chỗ An muội muội sao?” Sau đó liền ngoảnh đầu qua nhìn Lý Trường, chậm rãi nói tiếp: “Bên ngoài tuy mưa không lớn nhưng khi che ô cũng cần cẩn thận mới được. Lý Trường, ngươi nhớ phải tự mình hầu hạ đấy. Còn nữa, đêm đang lạnh thế này, áo choàng của Hoàng thượng đâu rồi?” Dứt lời tôi liền buồn bã xoay người bước đi.

Huyền Lăng khẽ lắc đầu, đưa tay nắm lấy bàn tay tôi.

“Không phải thế. Trẫm không đi, đêm nay trẫm sẽ nghỉ lại Nhu Nghi điện của nàng.”

Nhưng tôi lại lắc đầu, nói: “Hôm nay là ngày mừng của An muội muội, muội ấy nhất định là đang đợi Hoàng thượng tới đấy!” Sau đó lại định rời đi lần nữa.

Huyền Lăng nắm chặt tay tôi, trầm ngâm nói: “Tuy hôm nay là ngày nàng ấy được tấn phong, nhưng trong cung cũng đâu có quy định rằng trẫm nhất định phải qua chỗ nàng ấy. Mà nàng ấy bận rộn cả ngày, chắc bây giờ cũng mệt rồi.” Sau đó y liền ngoảnh đầu qua nhìn Lý Trường. “Ngươi hãy tới Cảnh Xuân điện nói cho An Chiêu viện biết ý của trẫm, bảo nàng ấy nghỉ ngơi sớm một chút.”

Lý Trường cung kính đáp “dạ” một tiếng, sau đó liền cáo lui rời đi.

Tôi bất giác nước mắt lưng tròng, tựa người vào lòng y, rủ rỉ nói: “Hoàng thượng kỳ thực không cần phải để tâm tới thần thiếp như vậy.”

Y đưa tay vuốt nhẹ má tôi, cất giọng dịu dàng tựa như làn gió xuân ấm áp: “Trẫm biết là nàng không muốn trẫm đi. Những ngày vừa rồi đúng là trẫm đã sơ suất, không thường xuyên ở bên nàng. Lúc này đã tới đây rồi lại lập tức qua cung của người khác như thế, đừng nói là nàng không muốn, ngay tới trẫm cũng không đành lòng.” Càng nói giọng y lại càng dịu dàng, trầm thấp hơn: “Ôi, đừng khóc!”

Tôi rơm rớm nước mắt bật cười, vội cúi đầu không để y nhìn thấy, thấp giọng lẩm bẩm: “Ai khóc chứ, tứ lang toàn đổ oan cho Hoàn Hoàn thôi, Hoàn Hoàn đâu phải là người nhỏ nhen như vậy.”

Y không kìm được vừa tức giận vừa tức cười. “Vừa rồi nhìn nàng nước mắt lưng tròng như vậy, trẫm thật sự đau lòng lắm.”

Tôi đưa tay khẽ đấm một cái vào ngực y, nói: “Hoàn Hoàn đâu phải là vì không muốn để tứ lang tới chỗ An muội muội nên mới khóc. Chỉ vì cảm nhận được tình ý sâu sắc của tứ lang với mình nên Hoàn Hoàn mới mừng quá mà khóc đấy thôi.” Tôi khẽ hỏi: “Hoàng thượng không qua đó, liệu An muội muội có giận không?”

Y thoáng lộ vẻ trầm ngâm. “Nàng ấy tính tình ôn hòa, thuần hậu, chắc sẽ không đâu.” Y tì cằm lên trán tôi, cười nói: “Cho dù nàng ấy tức giận, chẳng lẽ trẫm lại sợ sao?”

Tôi khẽ đẩy y một cái, cất giọng yêu kiều: “Đang trong ngày mừng thế này, nếu An muội muội mà tức giận thì không được hay lắm.”

Y ngẫm nghĩ một chút rồi bèn dặn dò Cận Tịch: “Ngươi hãy đi tìm Phương Nhược, bảo thị tới phủ Nội vụ chọn lấy ít đồ vàng mang qua Cảnh Xuân điện, nói là trẫm thưởng cho An Chiêu viện.”

Tôi còn đang định cất tiếng thì Huyền Lăng đã bế thốc tôi lên đi thẳng vào nội điện, khẽ cười, nói: “Cứ nghĩ đến chuyện của người khác làm gì, chúng ta bây giờ lo chuyện của chúng ta là được rồi.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.