Đừng Đùa Với Gái Hư

Chương 26: Ngoại truyện 4 - Tình anh em




Lúc Đường Hành tỉnh dậy, ánh dương đang rọi vào một cái mạng nhện lớn giữa xà ngang trên trần. Vừa mở mắt đã nhìn thấy trên bức tường trắng như tuyết có thêm bóng một con nhện to như cái đèn lồng, không khỏi thót tim, hẳn còn nghĩ bản thân đang nằm mộng.

Giờ cơm sáng đã qua, cháo đậu đỏ và bánh nướng thịt đều nguội lạnh, trong sảnh ăn thực khách lưa thưa, ai ai cũng mang bộ dạng lười biếng. Đường Hành gọi một bát sữa đậu nành nóng, xé cái bánh nướng thành từng miếng nhỏ, quệt vào sữa rồi ăn qua loa.

Hắn hơi hoài niệm gian nhà nhỏ của mình. Gian nhà nhỏ ấy nằm đối diện một con suối, mở cửa ra là thấy suối, bên cạnh có cây cầu, một cái rào trúc vây quanh hai cây liễu cổ to lớn. Căn nhà dưới gốc liễu không hề bắt mắt, nhưng đã là một tòa cổ trạch trăm năm. Bờ tường sớm đã loang lổ, trụ hành lang toàn những phân chim. Tấm tường ngăn lúc vào cửa đã sụp mất nửa, cỏ tranh mọc đầy rẫy trên nóc nhà, toát lên một không khí thê lương tan nát. Nhưng bài trí trong phòng thì lại cực kỳ xa hoa: thảm Ba Tư, đồ đạc bằng gỗ đàn hương, bình cổ chén vàng, chậu lan lọ cắm cỏ, cái gì cần có thì đều có hết. Tất tần tật những thứ khiến bản thân cảm thấy thoải mái mà một vị hoa hoa công tử có thể nghĩ ra đều ở đây hết rồi. Ngoài ra, hắn còn có Mạch Hương, Mạch Tú, hai thư đồng giúp hắn quét tước, giặt giũ, làm cơm. Bọn chúng sẽ không bao giờ để Đường Hành phải ăn cơm sáng không nóng không lạnh.

Đường Hành thích ngồi trong thư phòng của mình mà tận hưởng một ngày nhàn tản, nghe oanh hót yến ca ngoài hành lang, ngắm hoa nở hoa rụng trong sân. Lúc giữa hè, trong giếng cổ vườn sau có ngâm rượu lạnh, đấy là loại rượu nữ nhân thích uống, giang hồ hán tử mà nhấp vào một ngụm liền lập tức phun ra ngoài, cười mắng là “nước ngọt”. Hắn có chú ý tới mùi vị của rượu, lúc uống thì bỏ thêm vài quả ô mai, mùi vị càng thêm độc đáo. Hắn có thể uống liên miên hết chén này tới chén khác để quên đi cái nóng.

Hắn không thích mùa hè, càng không thích ngày nắng.

Ngày nắng mọi thứ quá rõ ràng, vạn vật hiển hiện từng li từng tí, chẳng có chỗ nào để mà lẩn trốn. Hắn tự nhận mình là một kẻ bạc nhược, thích hợp với việc nâng ly thanh tửu, ẩn mình ở một góc nào đó trong một ngày mưa gió sương, khói mịt mù, bên song một mình đơn độc.

Hắn nhớ hồi nhỏ, cứ tới đêm mưa mẫu thân thường thích ngồi trong cẩm thất, đối diện với màn đêm vô cùng vô tận bên ngoài, đàn một khúc nhạc cực kỳ ưu thương. Vào lúc ấy, phụ thân thì thích loay hoay với hoa cỏ ngoài sân. Tới lúc mệt sẽ đứng dưới hiên nhà, im lặng lắng nghe tiếng đàn của mẫu thân. Lúc ấy, nếu mấy đứa con ở phòng kế bên đang gây lộn, người sẽ đi vào khẽ “suỵt” một tiếng, bắt cả bọn yên lặng.

Dưới ám thị của phụ thân, nghe đàn trong mưa liền trở thành thời khắc thần thánh, thành một truyền thống gia đình. Đường Hành lại cảm thấy trong khúc nhạc đó có sự ai oán cứ đi thẳng vào tâm khảm, khiến người ta khó mà chịu được. Còn may là mùa mưa ở đất Thục không dài, mà đại đa số thời gian mẫu thân đều quá bận, cho nên hắn không đến mức lúc nào cũng phải chịu sự giày vò ấy. Chỉ có mỗi phụ thân là thính giả trung thành của mẫu thân mà thôi. Người sẽ trước sau như một đứng dưới hiên nhà, yên lặng lắng nghe, trên mặt lộ ra thần thái như mê như say.

Cây cổ cầm đó là do phụ thân tặng cho mẫu thân, bên trên có dát vàng khảm ngọc, làm bằng gỗ tử đàn với sừng tê. Nếu lâu ngày không dùng, phụ thân sẽ dùng lá dâu sát nhẹ lên dây đàn theo định kỳ, khiến chúng khôi phục âm sắc, trong sáng như mới.

“Các con nên theo mẹ học đàn. Hoặc là giống như tỷ tỷ các con ấy, chăm chỉ học chút y thuật”, lúc hắn còn nhỏ, phụ thân thường khuyên hai đứa như thế.

Có điều, hai huynh đệ cuối cùng vẫn theo phụ thân học võ.

Có lúc, hắn cảm thấy tác phong của phụ thân quá mức cổ hủ, còn mẫu thân thì lại quá thanh cao. Phụ thân khoan dung sự cao ngạo, khắc nghiệt, u buồn ít vui, sự thẳng thắn ngang ngạnh của mẫu thân, vì thế không thể không mềm mỏng với những người xung quanh bị mẫu thân đắc tội. Mẫu thân cự tuyệt vào Đường môn, phụ thân đành phải chuyển nhà ra con phố lớn ngoài Đường môn. Thực ra, quan hệ của người trên con phố ấy với Đường môn đã bao giờ không phải là dây mơ rễ má đâu. Hàng xóm trái phải, mười người thì có tới tám người họ Đường, tính kỹ ra, hoặc gần hoặc xa, họ đều là bà con thân thích. Mẫu thân ghét việc xã giao, không quen và cũng không muốn quen sinh hoạt kiểu đại gia tộc, cho dù đã ở bên ngoài Đường môn, người trước nay cũng không bao giờ lộ diện ở các bữa tiệc tùng hoặc tụ tập trong gia tộc, quăng hết tất cả phiền não về quan hệ người thân sang phụ thân.

Tự nhiên, người trong Đường môn cực kỳ bất mãn với sự ngạo mạn của mẫu thân. Hắn không chỉ một lần nghe các trưởng bối than ngắn thở dài trong đám đông, nói là Đường Tiềm quá hiền hậu, cho dù Ngô Du có là giai nhân hiếm có, nghìn năm khó gặp cũng không thể chiều nàng như thế. Còn cái nhìn của những kẻ đầu phố cuối ngõ lại càng thêm cay nghiệt, trong đầu họ, Đường Tiềm có nổi tiếng hơn nữa, có lợi hại hơn nữa thì chẳng qua vẫn là một thằng mù. Một thằng mù lại có thể lấy được nữ đệ tử đắc ý của thần y Mộ Dung, không những đẹp tựa thiên tiên, tài năng hơn người, mà còn y thuật cao siêu, ngày kiếm ngàn vàng, đấy không phải là số đỏ thì là gì?

Cửa lớn của Bình Lâm quán đã sửa chữa khí thế hơn hẳn xung quanh, diện tích càng ngày càng lớn, đình viện năm nào cũng sửa, còn mở thêm mấy chục nhà thuốc chi nhánh, độc chiếm một dải tây bắc về bán thuốc. Còn cửa hàng và ruộng đất phụ thân kế thừa từ tổ phụ thì mấy năm nay đã bị lũ người nhà quản thành chẳng ra làm sao, dở sống dở chết. Phụ thân trước giờ không định đổi người, mà cũng không bận tâm, vẫn bận bịu với sự vụ của Hình đường như thường.

Hắn vẫn luôn hoài nghi giữa cha mẹ mình rốt cuộc có một đoạn tình cảm sâu đậm nào không, hai người sống với nhau rất mực bình đạm, Đa số thời gian đều là phụ thân cẩn thận chăm chút mẫu thân, sợ phiền tới y vụ của mẫu thân, bèn đem hai đứa con trai nghịch ngợm quậy phá, gây lộn khắp nơi theo bên người. Tính khí nghiêm khắc lạnh lùng của người còn xa mới bằng ông nội, chưa tới hai câu là đã mềm lòng, nghe thấy con xây sát oa oa gọi là sẽ đau lòng. Thế là đành bỏ gần cầu xa, lúc nhập môn bèn chọn cho con một vị lão sư phụ nghiêm khắc, mỗi ngày đích thân đưa hai huynh đệ đi học võ. Lão sư phụ quả nhiên không khách khí, lộn người không đúng là “chát” một roi. Đứng tấn không tốt thì mông bị hương đốt. Hai huynh đệ luân chuyển học võ giữa mấy vị sư phụ tâm ngoan thủ lạt có tiếng trong Đường môn, có được một bộ mông đít toàn vết hương đốt, cho tới mười tuổi thì mới chính thức bắt đầu theo phụ thân học đao.

Sự sùng bái phụ thân của Đường Hành còn xa mới tới mức mãnh liệt như ca ca Đường Phất. Từ lúc hắn hiểu chuyện, Đường Phất đã giống như một cái bóng theo sau lưng phụ thân, coi việc kế tục “đao thống” của Đường thị song đao là nhiệm vụ. Đường Hành thậm chí còn hoài nghi mấy cái trò ca ca chơi hồi nhỏ, liệu có phải toàn bộ đều là để chuẩn bị cho việc tương lai kế thừa chức Đường chủ Hình đường không. Bắt đầu từ năm ba tuổi, mỗi lần phụ thân ra ngoài, Đường Phất đều theo người, nếu không được sẽ khóc toáng lên không thôi, khiến phụ thân mỗi lần ra ngoài đều phải lén lút chuẩn bị hành trang, trước khi đi thì lời ngon tiếng ngọt dỗ cho Đường Phất vui vẻ.

Nhưng mà, hắn có niềm tin y hệt Đường Phất rằng, phụ thân vĩnh viễn là anh hùng của Đường môn, đao khách kiệt xuất nhất trong thiên hạ. Cho tới năm hắn mười bảy tuổi, một lần thanh lý môn hộ, phụ thân gặp phải phục kích, thân bị trọng thương. Lưng của người trúng liền ba đao, máu tuôn như trút, tổn thương tới nội tạng. Về được tới nhà thì người đã hấp hối. Hắn còn nhớ ngày hôm đó mình phi ngựa tới Bình Lâm quán báo tin, khuôn mặt bình tĩnh của mẫu thân thoáng chốc hiện vẻ sợ hãi, giọng nói cũng rất run rẩy: “Hành nhi, con xuống ngựa, ta cưỡi ngựa của con về xem sao”.

Trước đây, mẫu thân ra ngoài nếu không ngồi kiệu thì ngồi xe, hắn không hề biết mẫu thân còn có thể cưỡi ngựa. Về tới nhà, mẫu thân tự mình làm phẫu thuật cho phụ thân, chân không rời cửa, áo không cởi đai, chăm sóc người ba tháng liền. Không những tự mình xuống bếp sắc thuốc nấu canh, còn thay phụ thân nhổ cỏ bón phân cho mấy luống hoa. Tới khi phụ thân có thể xuống giường, ngày nào mẫu thân cũng cùng người tản bộ bên sông.

Sự thân mật này trước giờ chưa từng có. Hắn từ xa nhìn thấy mẫu thân khoác tay phụ thân, ánh mắt cực kỳ yêu thương. Hai người ngồi dưới liễu rủ thầm thì trò chuyện, có lúc còn cùng nhau dạo phố, tới quán trà nghe ca kịch. Kể từ ngày đó, quy củ của Bình Lâm quán bỗng nhiên thay đổi. Mỗi ngày giờ Tị mở chẩn, mặt trời xuống thì đóng cửa, mẫu thân chỉ tọa đường khám bệnh, không còn ra ngoài thăm khám nữa. Những chuyện kiểu như gặp phải bệnh nhân bệnh tình khó khăn, mấy đêm liền không về nhà không còn xuất hiện.

Hắn biết mẫu thân luôn canh cánh về cái nghiệp của phụ thân, người sợ phụ thân lại bị trọng thương, lúc về tới nhà không có ai cứu chữa.

Bất kể người ngoài có xì xầm đánh giá ra sao, nói ngắn nói dài thế nào, hai người vẫn cứ sống theo quy tắc bản thân đặt ra, cứ thế không nóng không lạnh sống cùng nhau hai mươi mấy năm, trước giờ chưa từng đỏ mặt cãi vã. Mọi người dần dần quên đi những chỗ khác người của mẫu thân, người của Đường môn được mẫu thân bắt mạch, nối xương hay chữa khỏi bệnh nặng ngày càng nhiều. Tới mức cho dù mẫu thân vẫn không chịu tham gia xã giao thì cũng tuyệt không có ai oán trách, mà ngược lại còn nói giúp cho người.

Sau một thời gian dài đọ sức giữa những lời bịa đặt vô căn cứ của kẻ khác với nguyên tắc cá nhân của mẫu thân, sự đời cuối cùng cũng thay đổi. Hai người trở thành quy phạm cho hôn nhân mỹ mãn.

Tuy Đường Hành luôn không thích mẫu thân cho lắm nhưng không thể không thừa nhận trên người mẫu thân có một thứ sức mạnh thay đổi người đời.

Khá nhiều nữ nhân cả đời dốc hết sức lực, chỉ sợ không được thế tục chấp nhận, mẫu thân thì ngược lại, buộc thế tục chấp nhận mình.

Đang chìm đắm trong hồi ức vô cùng vô tận, chợt nghe có tiếng người gọi: “Xin hỏi, các hạ có phải là Đường Hành, Đường công tử không?”

Hắn ngẩng đầu nhìn, thấy người vừa nói là một thanh niên cao gầy, dáng vẻ anh tuấn, người bận tấm áo bào gấm không mới không cũ, vạt dưới lấm đầy bùn đất. Có vẻ như bôn ba trên lưng ngựa đã nhiều ngày, đôi mắt hắn có hai quầng thâm, dáng hình tiều tụy. Thanh niên này một tay bưng bát sữa đậu nành, tay kia đang nâng niu một đóa xuân cúc vàng óng. Đóa xuân cúc ấy cánh hoa to nhỏ không đều, dài ngắn khác nhau, rõ ràng không phải hàng bán ngoài tiệm mà là hái từ nơi sơn dã.

Đường Hành gật đầu, thấy bên cạnh còn chiếc ghế trống bèn nói: “Mời ngồi”.

Người nọ thong thả ngồi xuống, thấy trên bàn có bám dầu mỡ bèn lấy một cái khăn tay lớn ra trải lên rồi sửa sửa đóa xuân cúc để lên chiếc khăn.

Thân thích của Đường Hành rất đông nhưng qua lại thì không rộng, vì hắn trang phục lòe loẹt, cử chỉ kỳ dị, năm xưa suýt nữa bị Đường môn đem ra trị tội “ăn mặc quái đản”. Lời đồn truyền xa, người từng gặp hắn, từng nghe kể về hắn nhiều không đếm xuể.

“Chúng ta… từng gặp nhau?”, Đường Hành nghi hoặc hỏi một câu, đồng thời chăm chú đánh giá người đang tiếp chuyện, sợ hắn là một trong số đám bà con đông đúc của mình, sục sạo kỹ càng trong ký ức một lượt vẫn không tìm ra chút đầu mối nào.

“Năm trước ở Thí Kiếm sơn trang, công tử nghênh chiến ‘Lưu Tinh đao’ Trịnh Tú, tại hạ từng có duyên được đứng một bên quan chiến. Quả là đao pháp tuyệt diệu! Ai ai cũng nói công tử đã học được hết chân truyền của song đao, chỉ sợ đã nhanh chóng vượt qua tiền nhân rồi. Đáng tiếc là lệnh tôn ẩn tích giang hồ nhiều năm, khiến bọn tiểu tử đi sau chúng tôi không có duyên được tận mắt trông thấy phong thái của bậc nhất đại tông sư”, uống một ngụm sữa đậu nành, tinh thần của người này dường như đã khôi phục không ít, đôi mắt dần dần sáng lên, vừa nói tới Đường Tiềm mặt đã lộ ra vẻ ngưỡng mộ.

Đường Hành mỉm cười nói: “Huynh đài quá khen rồi. Gia phụ đã mấy năm gần đây bận bịu việc trong tộc, đúng là rất ít ra ngoài”.

Mười năm trước, chuyện tỷ đấu của Đường Tiềm còn tất bật hơn Đường Hành bây giờ. Gần như chưa được một tháng là có một thanh niên cao thủ vượt ngàn dặm tới đất Thục tìm Đường Tiềm so đao, học nghệ, không quá chiêu với bọn họ, có khuyên thế nào bọn họ cũng không đi. Lúc bắt đầu, Đường Tiềm vẫn bớt thời gian bồi tiếp, dần dần cũng mất đi lòng kiên nhẫn. Hai đứa con trai đành phải nhận lấy cái nhiệm vụ tiếp đón khiến người ta đầu to như cái đấu. Đường Hành ngoảnh nhìn, thấy người này không dùng đao, trên eo đeo một đôi phương lăng giản nặng trịch thì mới yên tâm.

“Thập cô nương Đường Linh, hẳn công tử phải nhận ra”, người nọ tiếp tục bắt chuyện.

“Đương nhiên biết, đó là đường cô của tôi, qua đời khi còn rất trẻ.”

“Nghe nói Ngũ Độc thần châm của vị ấy còn lợi hại hơn so với Bạo Vũ Lê Hoa châm năm xưa!”

“Đúng vậy, cho nên đường cô phải chết trong đại lao.”

“Đường Linh có một muội muội… tên là Đường gì nhỉ…”, người nọ đảo mắt, khổ sở suy nghĩ: “Tôi nhớ tên cũng chỉ có một chữ, mặt chữ cũng có bộ hỏa… Đường…”.

“Đường Huỳnh?”, người này càng nói càng xa, Đường Hành càng nghe càng hồ đồ.

“Đúng rồi, Đường Huỳnh. Nghe nói người làm trong Dược các nhiều năm, sau này lấy trưởng công tử Thôi Hiếu Sơn của Thôi gia ở Lạc Dương.”

Trên giang hồ luôn có người thích chuyện giang hồ. Xem ra người này quả nhiên biết không ít về Đường môn, Đường Hành không khỏi gật đầu cười nói: “Thôi Hiếu Sơn học võ Thiếu Lâm, năm xưa từng dùng bốn mươi hai chiêu Hình Ý quyền thắng Bát Quái chưởng của Linh Cơ Tứ phái Võ Đang, là giai thoại lưu truyền một thời”.

“Còn gì nữa? Có lời rằng ‘Thái Cực mười năm chẳng xuất môn, Hình Ý ba năm đánh chết người’. Quyền pháp trên đời chỉ sợ phải coi Thôi gia là kỳ quái nhất. Không những chiêu thức xuất quỷ nhập thần, nội công cũng cao thâm khiếp người. Năm xưa tôi nhất mực ôm mộng vào Thôi gia học nghệ, đáng tiếc không có ai tiến cử.”

Đường Hành thoáng sững người, cho rằng người này muốn qua con đường của Đường gia để tìm tới Thôi Hiếu Sơn học nghệ, bèn nói: “Nếu huynh đài muốn làm quen với Thôi tiên sinh, tại hạ có thể đứng ra giới thiệu…”.

Không ngờ hắn lại quay ngoắt đầu lưỡi: “Không không không, tôi quen biết Thôi tiên sinh. Có điều, huynh hẳn biết Thôi gia tuy nhiều đời học võ nhưng tới lứa Thôi Hiếu Sơn lại có một vị đọc sách, còn trúng cử nhân?”

Đường Hành đành phải hỏi: “Thì ra huynh đài và Thôi gia cũng có giao tình, nhưng không biết vị cử nhân đó là ai?”.

“Ông ấy tên là Thôi Kính Sơn, là đường đệ của Thôi Hiếu Sơn.”

“Cáo lỗi rồi, cái tên này hình như tôi chưa nghe qua, người của Đường môn quá nhiều, Thôi gia cũng không ít”, Đường Hành cuối cùng cũng thấy phiền hà, bắt đầu nhìn đông ngó tây, định tìm một lý do về phòng: “Giờ không còn sớm nữa, tại hạ…”.

Không ngờ kẻ kia vẫn cứ không hiều ý tứ của hắn, cướp lời nói tiếp: “Khác nghề như cách núi vậy! Vị Kính Sơn tiên sinh này văn hay chữ tốt, sở trường viền văn, thi từ cũng không kém, cũng là người có tiếng trong giới có học đất ấy đó”.

“Oa.”

“Đường huynh chắc là chưa nghe qua, Thôi Kính Sơn có ba muội muội đều sở trường thư họa. Trong đó người thứ hai tên là Thôi Hoan, chuyên vẽ hoa điểu, nhân vật.”

“Oa.”

“Huynh không có chút ấn tượng nào về vị ấy sao?”

“Hoàn toàn không biết.”

“Có một năm tới ngày sinh nhật phụ thân huynh, Đường Huỳnh từng tặng người một bức Túy Ông đồ. Mẫu thân huynh rất thích, treo nó ở trong khách sảnh nhà huynh… Bức họa đó chính là do Thôi Hoan vẽ đấy.”

Giờ hắn mới nhớ ra, trong khách sảnh đúng là có bức họa như thế, còn như ai vẽ bức họa ấy, trước giờ hắn chưa từng quan tâm.

“Giờ nhớ ra chưa?”, người kia nhìn hắn, khuôn mặt mong đợi.

“Nhớ ra rồi. Ừm, cùng gửi còn có một bức đối liên.”

“’Hàn thụ yêu thê điểu, Tình thiên quyển phiến vân’[1] đúng không? Đấy là thủ bút của Kính Sơn tiên sinh.”

[1] Hàn thụ mừng chim đậu, Trời xanh cuộn đám mây. (Hàn thụ là cây thường xanh)

“Đúng rồi”, Đường Hành cười khổ, từ trước tới nay hắn chưa từng bị một người cứ bám riết lấy như thế này.

“Thôi Hoan chính là gia mẫu”, người nọ cười, lộ ra vẻ tự hào: “Tôi họ Vương, tên là Vương Lộc Xuyên”.

Đường Hành kinh ngạc.

Để giới thiệu bản thân, không ngờ người này lại đi giới thiệu một vòng như thế! Huống chi, danh tiếng của Vương Lộc Xuyên trên giang hồ còn vang dội hơn nhiều so với Thôi Hiếu Sơn.

Đường Hành ôm quyền thi lễ: “Thất kính, thất kính. Báo vĩ phương lăng giản, xếp thứ mười hai trong Binh khí phổ. Đại danh của huynh đài như sét đánh ngang tai, sao không nói sớm, mà lại đi lòng vòng như thế!”.

“Ài”, Vương Lộc Xuyên thở dài một tiếng: “Nói mãi nãy giờ, đệ vẫn chưa nghe ra giữa chúng ta có quan hệ thân thích?”.

“Chúng ta… là thân thích?”

“Đương nhiên. Ta là biểu huynh của đệ, đệ là biểu đệ của ta.”

...

Đường Hành đang định đáp lời, đột nhiên không biết từ đâu có một người xuất hiện, xông tới trước bàn, chẳng biết đầu cua tai nheo gì và cho hắn một bạt tai.

Hai người nhìn kỹ lại thì thấy đó là một nữ tử đầu bù tóc rối, nộ khí xung thiên. Chỉ thấy ả một tay chống nạnh, một tay chỉ vào mũi Đường Hành, nước bọt bắn tung tóe chửi rằng:

“Đồ không biết xấu hổ! Nếu sau này ngươi còn dám dụ dỗ lão công nhà ta, ta nhất định mắng cho ngươi chết không yên thân! Ngươi biết ngươi là cái thứ gì không? Đường Hành! Ngươi chẳng âm chẳng dương, nửa đực nửa cái, nửa lừa nửa ngựa, người chẳng ra người quỷ chẳng phải quỷ. Lẽ nào hồi nhỏ không có ai dạy ngươi? Làm nam nhân phải ra dáng nam nhân, không được cả ngày bôi son trát phấn, kẻ mi vẽ mày. Làm mất mặt cha ngươi! Làm mất mặt Đường gia! Mất mặt người trong cả cái thành này! Nếu ta là ngươi, chết rồi cũng phải lột da mặt trước mới vào quan tài! Bớt cho tổ tông tám đời nhà mình phải buồn lòng! Thật quá đáng tiếc, ngày trước cửu gia gia sao lại sống chết ngăn không cho đem ngươi tới Hình đường thi hành gia pháp, chặt béng một tay ngươi đi, đuổi khỏi gia môn? Lại còn cho ngươi ở đây nhàn nhã rong chơi, hoang phí tổ nghiệp, lang thang khắp phố, mất hết mặt mày! Mẹ kiếp! Ra ngoài xem sắc trời, nấu ăn trông sắc lửa, trước phải xem xem bản thân có mấy lá gan, dám trêu vào Sái nhị nương ta? Song quyền khó địch tứ thủ, đầu người cứng không bằng thiết đao, nếu ngươi còn dám tiến vào nhà ta một bước, ta trước báo quan huyện, sau tìm người xử lý ngươi. Cho ngươi biết thế nào là mùi vị!”

Không thèm đợi Đường Hành mở miệng, nữ nhân kia đã cầm nửa bát sữa đậu nành trên bàn hất thẳng vào mặt hắn, sau đó “choang” một tiếng, ném cái bát xuống đất, quay đầu nghênh ngang bỏ đi!

Người trong khách sảnh nghe tới sướng tai, đầu tiên là tròn mắt há hốc miệng, quay sang nhìn nhau rồi kế đó thì thầm bàn tán. Đường Hành mặt mũi nhếch nhác, rút trong người ra một chiếc khăn tay, lau sạch sữa đậu nành trên mặt, thấy Vương Lộc Xuyên nhìn mình ngây ra, không khỏi cười khổ: “Chúng ta vẫn là thân thích chứ?”.

“Đương nhiên”, thấy cái khăn mỏng manh của Đường Hành lau một chút đã lập tức ướt tới vắt ra nước, Vương Lộc Xuyên vội rút khăn tay dưới đóa xuân cúc đưa cho hắn: “Lão đệ ít nhiều gì cũng là người luyện võ, cái tát kia không tránh, sữa đậu nành cũng tránh không nổi sao?”.

“Lẽ nào huynh không nghe ra vị cô nương đó là thân thích của đệ?”

“Chẳng trách, xem ra đệ hình như còn chẳng tức giận gì cả?”

“Làm sao đệ có thể nổi giận với nữ nhân?”, Đường Hành cười nhẹ: “Đệ chính là thích vẻ bừng bừng trên mặt của nữ nhân lúc nổi giận, lúc nào đó đệ cũng có thể làm như thế thì tốt rồi”.

“Huynh đệ người không có bệnh đấy chứ?”, Vương Lộc Xuyên nhíu mày.

“Không”, thấy người đối diện cúi mặt, dáng vẻ như tâm sự trùng trùng, Đường Hành lại hỏi: “Huynh tới đây hỏi người thân sao? Hay là đi ngang qua?”.

“Đều không phải”, ngập ngừng một hồi, Vương Lộc Xuyên thấp giọng nói: “Ta tới đây tìm vợ chưa cưới của mình. Sắp tới ngày thành thân tới nơi mà nàng đột nhiên chạy mất”.

Đây đương nhiên là chuyện rất không may.

Đường Hành cảm thông vỗ vỗ vai hắn, an ủi: “Chuyện đã xảy ra rồi, huynh nên nghĩ thoáng ra. Hiện cô ta bỏ đi, so với sau này mang theo con của huynh bỏ đi thì còn tốt hơn, phải không?”

Hắn nói thế càng như thêm dầu vào lửa, Vương Lộc Xuyên hai mắt đỏ rực, ngây người một lúc lâu rồi nói: “Ai cũng khuyên ta như thế”.

Nói rồi rút bên eo ra một hồ lô rượu, nghển cổ tu ừng ực mấy ngụm lớn, ho một tiếng, sau đó rút trong người ra một tấm thiệp hồng ánh vàng, cười khổ:

“Đệ xem, mọi thứ đều đã chuẩn bị xong xuôi. Ta còn đang hớn hở mừng rỡ đợi làm tân lang, không ngờ lại xảy ra chuyện này.”

Đường Hành đón lấy thiệp hồng, bên trên viết hai chữ “Cát Kỳ”[2], mở ra xem, bên trong viết:

[2] dịp tốt

“Cẩn thận xem được ngày mồng Tám tháng Tư là ngày tốt cho tiểu nhi cưới hỏi, kính nghênh lệnh ái làm lễ Vu Quy, khẩn xin tôn từ[3] cho phép, thật hân hạnh lắm thay. Bên phải ghi Bậc đức cả tôn ông thông gia Tô lão tiên sinh đại nhân tại hữu. Giáo đệ Vương Tá Dương cúi mình.”

[3] cha mẹ

Tờ tiếp theo ghi chi chít nào là Nạp Thái thì giờ nào Phong Sính, Tài Y; giờ nào Khai Tiễn, Thướng Kê; giờ nào Chính Dung, Trang Liêm; giờ nào Ban Vận, Nghêng Thú; giờ nào Đăng Kiệu; v.v…

Đường Hành nghĩ ngợi một lát rồi hỏi: “Trước khi đi cô ấy có lưu lại câu nào không?”.

“Nàng lưu lại một phong thư, nói rằng nàng từng gặp một người, nghĩ rằng đời này không thể gặp lại hắn nữa. Không ngờ một ngày trước ngày thành thân lại gặp được hắn. Nàng nói đấy là số mệnh an bài, nàng không thể không theo hắn, muốn ta tha thứ cho nàng, sau đó quên nàng đi”, Vương Lộc Xuyên nói, vẻ buồn thương trong mắt càng thêm sâu đậm: “Nhưng mà, ta làm sao quên được nàng đây? Ta căn bản quên không nổi…”.

“Nói như vậy tức là huynh cũng không biết rốt cuộc cô ấy chạy theo ai?”

“Không biết.”

Trước khi cưới cô dâu mất tích, quá nửa là do không đồng ý với lệnh của phụ mẫu. Đường Hành lại hỏi: “Trước đây huynh có quen biết vị hôn thê của mình không?”.

“Từ bé đã biết nhau, thanh mai trúc mã. Tất cả thói quen của nàng ta đều biết: thích ăn gì, thích chơi gì, thích mặc gì, màu y phục, thích mua son phấn hiệu nào… Khi đi đường, chỉ cần đảo mắt một cái là ta có thể đoán ra nàng muốn gì; chân vừa nhấc là ta đã biết nàng định đi hướng nào. Hai đứa vô tư chơi với nhau từ nhỏ, sao mà không ‘tâm hữ linh tê nhất điểm thông’[4] đây!”

[4] ý chỉ cực kỳ thấu hiểu nhau

“Thế mà huynh lại không biết cô ấy sẽ đào hôn?”

Vương Lộc Xuyên cứng lưỡi: “Không… không biết. Trời biết được, tâm tư của nữ nhân thay đổi còn nhanh hơn thời tiết”.

Sau màn hỏi đáp này, hắn rõ ràng rất chán nản, đôi mắt tối đi, hồn bay phách lạc, giống như nếu không phải nhờ mấy ngụm rượu mạnh chống đỡ thì chỉ sợ đã sụp đổ rồi: “Ta đã tìm nàng hai ngày hai đêm rồi”.

“Tìm thấy cô ấy chưa?”

“Đã tìm thấy. Cảm ơn trời đất! Bây giờ đệ đã biết cái gì là thanh mai trúc mã chưa? Ta biết ngay cô ấy sẽ đi về hướng này.”

“Chúc mừng, chúc mừng! Với lòng thành của lão huynh, nhất định cô ấy sẽ cảm động.”

“Ài, khó nói lắm”, Vương Lộc Xuyên thở vắn than dài: “Nàng ở ngay nơi đây”.

Đường Hành chăm chăm nhìn vào mặt hắn: “Cô ấy ở ngay đây? Trong khách điếm này?”.

“Ta đã hỏi chưởng quỹ, hắn thấy ta y phục lộn xộn, sống chết gì cũng không chịu nói cho ta số phòng của cô ấy. Có điều ta biết cô ấy tám chín phần mười là ở phòng số 7 chữ Hồng, trong tất cả các số, cô ấy thích số 7.”

Thấy hắn tâm tình hoảng loạn, Đường Hành lại vỗ vai hắn, ôn hòa hỏi: “Vậy huynh dự định làm thế nào?”.

“Làm thế nào? Khách điếm này hiện đã không còn phòng trống. Đến giường tạm cũng có hai người nằm. Ta chỉ đành không ngủ, cả ngày ngồi ở sảnh ăn mà đợi. Chưởng quỹ có nói, hai ngày nữa là có phòng rồi.”

“Thật ra ở đối diện có Tường Thái khách điếm, rất nhiều chỗ trống…”, Đường Hành kiến nghị.

“Không, không, không, không! Khó khăn lắm ta mới tìm được nàng, không thể lại để nàng biến mất ngay dưới mắt mình được. Ta sẽ thủ ở chỗ này”, hắn chỉ mang theo một bọc hành trang nho nhỏ, mấy ngày mấy đêm không tắm gội, toàn thân sặc mùi mồ hôi ngựa.

“Cô ấy tên là gì? Nói nghe xem, có lẽ đệ từng gặp rồi.”

“Tô Phong Nghi. Người nhỏ nhắn, mặt hơi gầy, mắt to. Trong khách điếm này chẳng có bao nhiêu nữ nhân, nhất định đệ từng gặp nàng.”

Đường Hành lục lọi trong đầu rất lâu, lắc đầu nói: “Chưa từng gặp”.

“Chắc là đệ không chú ý...”

“Có lẽ thế…”, Đường Hành lại nhìn hắn, trong lòng có chút bất nhẫn, nói: “Hiếm khi gặp được thân thích ở chỗ này. Hay là huynh đi tắm gội trước đi, đệ sẽ bảo lão bản kê thêm một cái giường trong phòng đệ. Huynh đi ngủ một giấc, ở tạm phòng đệ hai đêm, đợi khi có phòng trống rồi thì dọn qua, thế nào?”.

Vương Lộc Xuyên đứng dậy, lộ vẻ cảm kích, trịnh trọng nói: “Đa tạ đệ giúp ta!”.

Hắn theo Đường Hành đi lên lầu, đi qua phòng chữ Hồng, thấy cửa phòng khép chặt chợt nói: “Đợi đã”.

Nói rồi đem đóa xuân cúc giắt vào khe cửa, quay đầu lại cười nói với Đường Hành: “Đây là loài hoa nàng thích nhất, ở chỗ bọn ta khắp nơi đều là hoa này”.

“Làm sao huynh biết đây là phòng của cô ấy?”

“Nàng nhất định ở đây”, hắn nói: “Nếu đệ cùng ở một chỗ với một nữ nhân, lâu rồi sẽ có cảm giác kỳ diệu đối với nàng”.

“Huynh không sợ cô ấy trông thấy đóa hoa này sẽ lập tức thu dọn hành lý à?”

“Bất kể nàng đi tới đâu, ta đều có thể tìm thấy nàng… Bởi vì bọn ta là thanh mai trúc mã”, hắn giải thích: “Trước giờ ta chưa từng ép buộc nàng làm chuyện gì, tất nhiên cũng sẽ không ép nàng về cùng mình. Ta chỉ sợ duy nhất một chuyện là…”.

Hắn đột nhiên ngừng lại.

“Chuyện duy nhất huynh sợ là?”

Hắn đưa mắt đi, hồi lâu mới hít sâu một hơi: “Điều duy nhất ta sợ là nam nhân nàng gặp được tốt hơn ta. Nếu là như thế, ta không còn chút hy vọng nào rồi”.

“Này, chớ có nghĩ ngợi quá nhiều”, Đường Hành đẩy cửa phòng mình.

Giờ hắn mới phát hiện, dưới đất có một tờ giấy trắng.

Vương Lộc Xuyên đặt bọc hành trang xuống, hỏi: “Phòng tắm ở chỗ nào nhỉ?”.

“Dưới lầu, rẽ trái, nhớ đem theo chìa khóa”, Đường Hành vội vàng thay áo ngoài, gấp tờ giấy bỏ vào người: “Giờ đệ phải ra ngoài một chuyến”.



“Chúng ta không thể ra ngoài.”

Tô Phong Nghi rút cây rìu màu bạc nho nhỏ, khom eo, định xông ra ngoài cửa xe, Thẩm Khinh Thiền đã giữ nàng lại.

“Có thể là Lộ thị huynh đệ, Tuấn ca gặp nguy rồi”, Tô Phong Nghi gồng mình, quay đầu lại nhìn Thẩm Khinh Thiền.

“Không chỉ có hai người bọn họ”, ánh mắt Thẩm Khinh Thiền thoáng động.

Sau khi một mắt bị hủy, mắt kia của nàng cũng sưng tấy lên, chỉ có thể mở một nửa.

Trong cái thoáng động vừa rồi, Tô Phong Nghi đã nhìn thấy nỗi sợ hãi của nàng.

“Bọn họ sẽ không lập tức hại huynh ấy”, nàng khe khẽ nói: “Bọn họ muốn lợi dụng chàng dẫn dụ Quách Khuynh Trúc xuất hiện”.

“Bọn họ là ai?”

Thẩm Khinh Thiền quay mặt đi, sửa lại: “Tỷ nói sai rồi. Không phải ‘bọn họ’ mà là ‘bọn tỷ’, là ca ca của tỷ”.

Tô Phong Nghi gật đầu: “Vậy thì tỷ rốt cuộc đứng về phe nào?”.

“Nếu muội là tỷ, muội sẽ đứng về phe nào?”

“Nếu như đứng lộn sẽ bị người ta móc mất một mắt, vậy thì muội phải suy nghĩ cho kỹ đã.”

Nơi đó là một cánh rừng âm u, ánh dương thưa thớt, xuyên qua kẽ lá chiếu xuống.

Phía xa có một con suối, hơi ấm quanh năm lãng đãng khắp không gian, dưới ánh nắng, sương khói có màu hồng đỏ.

Mọi thứ dường như trong sáng, nhưng lại chẳng nhìn rõ được thứ gì. Nhiều bóng người đang giao lại một chỗ, gió thổi mây bay, biến hóa khó lường.

Rừng mãi mãi là nơi thuận lợi nhất cho việc phục kích.

Tất cả những bóng hình và tiếng động khả nghi đều có thể lẫn lộn với những sinh vật ẩn nấp trong góc khuất, trở thành khảo nghiệm lớn cho thính lực và sức phán đoán của người học võ.

Vừa nghe thấy tiếng tên bay, Quách Khuynh Quỳ biết ngay tình hình không ổn, vội vàng che chắn não ngựa phọt tới mặt mình.

Hắn biết Lộ thị huynh đệ đang ẩn mình trên một cái cây nào đó mạn trái cỗ xe ngựa, giương cung chực bắn. Đáng tiếc vào một thoáng tên phóng tới, hắn đã nhảy xuống nấp bên mạn phải cỗ xe.

Hiển nhiên hai kẻ kia biết Thẩm Khinh Thiền đang ở trong xe, ném chuột sợ vỡ đồ nên chỉ bắn hai mũi, cũng không dốc hết sức, nếu không tên sớm đã xuyên qua nóc xe, sát thương toàn bộ người bên trong.

Đúng lúc ấy, một cơn đau nhói từ ngực truyền lên, hắn cảm thấy một trận hoa mắt chóng mặt.

Cái đêm trước hắn trúng tên rơi từ trên cây xuống, không những ngực chịu nội thương nghiêm trọng mà còn bị gãy hai xương sườn. Được Tử Hân điều trị kỹ càng, vết thương khôi phục rất nhanh nhưng vẫn chưa hoàn toàn bình phục. Quách Khuynh Quỳ ôm ngực, tựa lưng vào xe nghỉ ngơi, nheo mắt quan sát tình hình bốn phía.

Giờ đang đầu hè, mặt trời gay gắt trên đầu nhưng không biết vì sao một cái lạnh thấu xương thấm cốt từ sau truyền tới.

Hắn ngoảnh đầu lại, thấy một người áo trắng thân mình gầy guộc, đứng thẳng như mũi thương trong lùm cỏ cách hắn mười bước, lạnh lùng nhìn hắn.

Người áo trắng này tuổi tác khoảng tầm ba chục nhưng đầu tóc bạc trắng, ánh mắt âm trầm, lạnh tựa trời đông.

Người này ẩn trong đám sương sắc hồng đỏ, mờ ảo tựa ánh trăng, dường như bất cứ lúc nào cũng có thể trôi đi. Dạ dày của Quách Khuynh Quỳ chợt nôn nao, mấy lần muốn nôn.

Tuy trong lòng vẫn ôm tâm lý cầu may nhưng hắn sớm đã liệu tới việc hôm nay rất có thể sẽ đụng phải huynh đệ Thẩm gia.

Mà Thẩm Không Thiền là kẻ hắn không muốn gặp nhất.

Một đêm đông sáu năm trước, Quách Khuynh Trúc lỡ tay làm trọng thương thê tử của Thẩm Không Thiền, nữ kiếm khách phái Không Động – Trần Tử Anh. Hắn không biết đôi phu phụ này tuy mới cưới chưa lâu nhưng Trần Tử Anh lúc ấy đã mang thai. Ngày hôm sau, hai mẹ con đều qua đời, một xác hai mạng. Vì thế mà Thẩm Không Thiền sau một đêm tóc bạc trắng, trước mộ thê tử tự chặt một bàn tay thề báo thù rửa hận. Đeo trên cổ tay trái hắn là một bàn tay giả, được đúc từ tinh thiết nghìn năm, tay phải dùng một cây Oa đao cực mỏng. Vốn là một thanh niên tác phong hăng hái đột nhiên biến thành tâm tình thảm đạm, không còn tham gia bất cứ cuộc tranh đấu nào trong võ lâm.

Lần sau cùng hắn xếp thứ ba trên Đao bảng, nhưng mọi người đều biết hắn và người xếp thứ nhất “Kim Cương đao” Tần Hải Lâu không phân cao thấp. Hắn là đứa con đắc ý nhất của Thẩm Thái, lực lượng vững chắc của Tam Hòa tiêu cục.

Luận về đơn đả độc đấu, trong các huynh đệ Thẩm gia, có lẽ chỉ có lão tam này là đối thủ của Quách Khuynh Trúc.

Dù là lúc nào, trên mặt Thẩm Không Thiền cũng chẳng bao giờ nở nụ cười. Trước nay hắn không mặc áo trắng, hiện tại thì trừ áo trắng ra không mặc đồ màu khác.

Vết sẹo trên mặt Quách Khuynh Trúc chính là do người này lưu lại. Lần đó, Thẩm Không Thiền vốn là có cơ hội giết Quách Khuynh Trúc nhưng vào thời khắc sau cùng hắn lại thay đổi chủ ý, để Quách Khuynh Trúc tuy bị trọng thương nhưng giữ lại được một cái mạng.

Hắn làm thế chẳng phải bởi tự dưng nổi lòng thương hại.

“Ta hy vọng ngươi có một trăm cái mạng bởi vì giết ngươi một lần còn lâu mới đủ.”

Giá như không bị trọng thương, dựa vào thiết kiếm trong tay, Quách Khuynh Quỳ may ra còn có thể cầm cự với Thẩm Không Thiền được một lúc. Cứ như tình hình trước mắt, hắn chẳng có chút phần thắng nào, huống chi trên cây còn có huynh đệ họ Lộ.

Ngón tay của Thẩm Không Thiền khẽ động, đao đã lăm lăm trong tay.

Không chốn để lùi, Quách Khuynh Quỳ chợt hét to một tiếng, nhấc thiết kiếm xông thẳng lên!

Ai ngờ đúng vào lúc ấy, chợt nghe có người sắc giọng hô: “Đợi đã!”.

Cửa xe “cạch” một tiếng bật mở, Tô Phong Nghi từ sau xe nhanh nhẹn nhảy ra, một tay đỡ Thẩm Khinh Thiền, tay kia lăm lăm chủy thủ kề trên cổ nàng, sắc giọng nói với Thẩm Không Thiền: “Nếu ngươi dám hại huynh ấy, ta sẽ giết muội muội của ngươi!”, nói rồi bày ra bộ dạng hung ác, cố ý đưa mũi đao lên vạch vạch hờ mấy đường trên mặt Thẩm Khinh Thiền.

Thẩm Không Thiền chẳng mảy may lay động, tiếp tục bước tới.

“Không được tới đây! Nghe thấy chưa? Ta bảo ngươi không được tới!”

Thấy thần sắc người áo trắng kia kỳ dị, Tô Phong Nghi kéo Thẩm Khinh Thiền bất giác lùi lại một bước. Một thoáng ấy, người áo trắng đã xông tới nhanh như quỷ mị! Không đợi nàng kịp nhúc nhích, Tô Phong Nghi chỉ cảm thấy da mình đột nhiên lành lạnh, một bàn tay bằng thép lạnh lùng chạm vào mặt, nhẹ nhàng ve vuốt.

Bàn tay sắt cọ vào cạnh chủy thủ, phát ra tiếng chói tai. Trong mắt Thẩm Không Thiền bỗng hiện lên nét dịu dàng tựa hồ xuân, giống như đang thưởng thức tiên nhạc.

“Bỏ cái tay thối của ngươi ra! Chớ chạm vào ta!”

Bàn tay sắt kia quả nhiên đưa khỏi, chuyển tới khuôn mặt Thẩm Khinh Thiền. Ngón tay thép móc vào bịt mắt, nhẹ nhàng vạch ra một góc rồi nhanh chóng buông ra.

Mặt Thẩm Không Thiền vốn đã đủ tái, lúc này lại trở nên trắng xanh.

“Là kẻ nào làm bị thương mắt muội?”, giọng hắn chợt mềm đi, đầy ắp quan tâm.

Thẩm Khinh Thiền nhìn hắn, nhẹ giọng nói: “Đây là ân oán tự muội rước lấy, không liên quan gì tới huynh. Nếu huynh không muốn người ta lấy nốt mắt kia của muội thì mau mau rời xa muội một chút”.

Trong bảy đứa con của Thẩm gia, nàng nhỏ tuổi nhất, cũng là con gái duy nhất, từ nhỏ đã được yêu thương chiều chuộng, trước mặt các anh luôn quen thói ngang ngược.

“Không cần phải lo. Muội vốn là một cô gái mỹ lệ”, tay Thẩm Không Thiền vẫn đặt trên mặt nàng, giọng nói lại có thêm một chút thương xót: “Mất đi một mắt, muội sẽ thành một cô gái anh tuấn”.

Tô Phong Nghi lạnh lùng nói: “Nếu ngươi không rời khỏi đây, ta sẽ cho cô ta thành một cô gái thủng lỗ chỗ”.

Thẩm Không Thiền quay mắt sang, đôi con ngươi màu xám nhạt đánh giá nàng, hồi lâu, lộ vẻ trào phúng trên mặt, nói: “Thật à? Cô nương thật sự muốn giết nó?”

“Ngươi cho rằng ta không dám?”

“Ở cổng Hồi Xuân đường, là cô dìu muội ấy xuống xe?”

“Thế thì làm sao?”

“Là cô để nó ngồi đợi, bản thân xếp hàng giúp nó?”

“…”

“Là cô đưa nó tới gặp Thẩm Thác Trai, lại đưa nó về xe?”

“…”

“Nếu như cô thật sự muốn giết nó”, Thẩm Không Thiền thong thả nói: “Vậy thì xin mời”.

Lời vừa dứt, Thẩm Không Thiền đã xuất thủ. “Keng” một tiếng, Tô Phong Nghi chỉ cảm thấy có một luồng nội lực to lớn ập tới, thanh chủy thủ bằng gang tinh chế kia văng lên không trung gãy làm đôi.

Tay kia của hắn xuất đao, trực tiếp bổ thẳng xuống đầu Quách Khuynh Quỳ!

Đao pháp của Thẩm Không Thiền theo lối giản luyện, dùng nội lực cương mãnh làm sở trường, tuy không biến ảo đa đoan nhưng mỗi chiêu đều tuyệt đối hữu hiệu.

Chỉ một đao này, hắn đã chặn hết mọi đường thoát của Quách Khuynh Quỳ, buộc hắn phải trực tiếp đối đầu, không còn lối khác.

Với thương thế của Quách Khuynh Quỳ, chỉ cần tiếp một đao này, máu ắt phải phun ba thước, nội tạng trọng thương!

Đúng lúc ấy, Tô Phong Nghi cảm thấy thân thể Thẩm Khinh Thiền lắc mạnh một cái, trong tay đã cầm kiếm, nhưng nàng không hề xuất thủ, thanh kiếm kia chớp mắt đã quay lại trong bao!

“Choang” một tiếng, lửa tóe tứ phía!

Không biết từ đâu, một bóng người xuất hiện đỡ cho Quách Khuynh Quỳ một đao!

Tiếp đó, tiếng đao rít vù vù, đao quang như điện chớp nhoang nhoáng, hai bóng người vụt đi mười trượng, tung mình vào không trung.

Lá rụng như mưa đổ, rơi rớt lả tả.

Tô Phong Nghi ngẩng đầu nhìn, mừng rỡ kêu: “Là Đường Hành!”.

Thẩm Khinh Thiền nói: “Chúng ta mau đi thôi!”.

Quách Khuynh Quỳ tháo dây buộc con ngựa chết, đưa Tô Phong Nghi lên lưng một con ngựa khác, tung dây cương cho nàng, nói: “Muội mau đưa Thẩm cô nương về khách điếm”.

Tô Phong Nghi vội hỏi: “Huynh thì sao? Sao huynh không cùng đi?”.

“Ta ở lại giúp, chỉ sợ một mình Đường Hành đối phó không nổi.”

Còn đang nói, tiếng đao bỗng im bặt, bóng áo trắng chạy về phía xa. Đường Hành nhẹ nhàng từ trên cây đáp xuống, cười nói: “Ai bảo một mình ta đối phó không nổi? Không phải hắn đã chạy rồi đấy thôi?”.

Ba người kia ngơ ngác nhìn nhau, tròn mắt há miệng nhìn hắn.

Tô Phong Nghi hỏi: “Huynh đệ họ Lộ đâu? Bọn họ cùng chạy rồi à?”.

“Chạy rồi. Trúng phải ám khí Đường môn mà không chạy, lẽ nào còn đợi tôi đưa thuốc giải cho hay sao?”

Đôi môi Thẩm Khinh Thiền hơi động muốn nói nhưng lại thôi, một lúc sau nàng cũng mở miệng: “Huynh… huynh có đả thương tam ca của ta không?”.

“Không hề… Làm sao tôi dám đả thương tam ca của cô nương?”

“Vậy sao huynh ấy lại chạy?”

“Tôi không biết.”

“Huynh không biết?”

“Tôi chỉ nói với hắn là tôi rất thích hắn, hỏi hắn xem lúc nào rảnh tới quán trà uống tách trà… Hắn vừa nghe thấy thế liền quay đầu chạy luôn”, Đường Hành ôm tay, tựa vào thành xe, nửa cười nửa không nhìn ba người, mười đầu ngón thon nhỏ nhuộm sơn đỏ chóe.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.