[Đắm Say Hệ Liệt] Tâm Cơ Thiên Sứ

Chương 8: Phiên ngoại 1: 30 vấn đề khi sống chung




Còn nhớ tên tội phạm ấu dâm không?” Shaya hỏi. Bọn họ đang ở phòng làm việc của Ibrahim cùng với trung úy Daher, Abdullatif, và Zunedh. Ibrahim đang ngồi tại bàn làm việc. Ông không gọi họ vào đây; bọn họ tự tràn vào sau cuộc họp và tranh luận.

“Tên nào?” Daher hỏi với vẻ miệt thị.

“Cái tên bị chặt đầu ấy. Tôi nghĩ là vụ năm ngoái. Họ đã bắt được hắn ở Hail.”

“Rồi, rồi, tôi nhớ rồi.” Daher tựa người vào tường.

“Thực ra, tôi đang nghĩ.” Shaya nói. “Hắn đã cưỡng hiếp những cậu bé con rồi vứt xác chúng ngoài sa mạc. Hắn là một tên giết ngưòi hàng loạt, cũng giống như gã này. Và hắn là người Ả Rập Xê-Út.”

Không ai đáp lời.

“Hắn còn trẻ, tên đó ấy.” Shaya nói tiếp. “Hai mươi hai tuổi, hình như vậy. Và một tờ báo nước ngoài đã nói hắn mắc chứng rối loạn tâm thần, nhưng dù sao chúng ta cũng đã xử tử hắn.”

“Và chúng ta nên làm vậy” Daher nói. “Mà mắc chứng rối loạn tâm thần thì sao chứ? Hắn đã giết người. Trẻ em! Hãy nghĩ đến điều đó, anh bạn ạ.”

“Nghĩ đến gì cơ?” Abdullatif hỏi. “Hắn không tự chủ được hành động của mình. Hắn bị điên. Shaya nói đúng. Họ nên tìm hiểu điểu đó và nên nhân đạo một chút”

“Thế còn những gia đình đó thì sao?” Daher hỏi lại. “Con cái họ đã chết”

“Giết một gã điên không giúp bọn trẻ sống lại được.” Abdullatif thẳng thừng nói, chấm dứt cuộc tranh luận. Bọn họ quay sang Ibrahim để xem liệu ông có muốn tham gia ý kiến hay không. Ông muốn nói với họ rằng tất nhiên đất nước này có những tên giết người hàng loạt, rằng những lời than vãn của bọn họ về vấn đề đó chỉ cho thấy rằng họ còn non trẻ và ngây thơ, và rằng chẳng có câu trả lời nào là thỏa đáng đối với vấn đề hình phạt tử hình cả.

“Vậy lạ hiện tại chúng ta đã biết tên giết người này thông minh đến mức nào.” Ibrahim nói. “Hắn tự cho mình là một tay thông minh. Viết thông điệp bằng những xác chết.”

“Và thông điệp mới hay làm sao.” Shaya nói. “Hoàn toàn bệnh hoạn.”

“Nhưng hắn ta không hẳn là một kẻ điên đâu.” Daher nói. “Nếu điên thì hắn đã bị bắt dễ dàng như tên giết người ở Hail kia rồi.”

“Vụ đó cũng mất đến bốn năm đây.” Ibrahim nói thêm vào.

“Tiến sĩ Becker đã nói những tên giết người kiểu đó có xu hướng chọn lựa nạn nhân theo nhóm tộc người của riêng hắn.” Daher nói.

“Có xu hướng không phải là một bộ luật đâu.” Ibrahim nói.

“Tôi hiểu ạ.” Daher đáp. “Và đó không phải là điều mà tôi thất vọng. Shaya nói đúng. Chúng ta có những tên giết người kiểu đó. Nhưng chúng ta đang cố gắng lập hồ sơ về hắn, phải không ạ? Chúng ta nên tìm hiểu hắn đến từ đâu.”

“Tất nhiên.” Ibrahim nói. “Nhưng trong khi còn thiếu các chứng cứ, chúng ta phải có những suy nghĩ cởi mở.”

“Tôi tự hỏi không hiểu họ có mời chuyên gia lập hồ sơ của FBI trong vụ Hail không nhỉ?” Zunedh hỏi. Anh ta là người trầm tính nhất trong số các sĩ quan, vô cùng nhút nhát. Thật bất ngờ khi anh ta lên tiếng. Và ngay lập tức anh ta đỏ mặt vì xấu hổ.

“Đúng vậy, ý hay đây.” Daher khen ngợi. “Tại sao hiện giờ chúng ta lại cần một người như vậy nhỉ?”

“Đúng vậy, ý hay đây.” Daher khen ngợi. “Tại sao hiện giờ chúng ta lại cần một người như vậy nhỉ?”

Ra là thế - nguyên nhân thực chất của sự ủng hộ đó: tại sao phụ nữ lại có mặt trong vụ án này? Ibrahim nghi ngờ điều này nhưng cũng đã mong là mình sai.

“Thôi đừng kêu ca nữa.” Ông nói. “Chúng ta may mắn có được Tiến sĩ Becker ở đây, và cũng may mắn khi cô Hijazi tìm được quy luật đó. Tôi mong nhận được sự tài giỏi đó của tất cả các thành viên trong đội.”

Daher lại bực tức. Mặt anh ta tím lại.

Khi Ibrahim nhìn họ tản đi thực hiện nhiệm vụ của mình, ông bắt đầu thấy lo lắng. Chỉ là vấn đề thời gian thôi trước khi lòng tự trọng bị tổn thương của Daher đẩy anh ta vào quỹ đạo của Abu-Musa và Mu'tazz, những người luôn cho rằng phụ nữ nên bị cấm làm việc trong lực lượng cảnh sát ngoại trừ những công việc thực sự cần đến họ để đảm bảo những chuẩn mực có liên quan đến giới tính: khám nghiệm tử thi nữ, xử lý các mẫu sinh học nữ giới, và đôi khi là việc thẩm vấn các nữ nhân chứng. Một khi Daher nhập hội đó, những sĩ quan khác cũng sẽ làm theo. Đột nhiên Ibrahim nghĩ đến việc Katya sẽ đốt đống lửa trại của riêng mình trong phòng họp. Liệu ông có khinh suất khi đề nghị việc đó không nhỉ? Tại sao không để cô ấy thực hiện các công việc trong phòng thí nghiệm chứ? Ông nghi ngờ cả chính lòng tự trọng của mình ở nơi làm việc. Ông đang kéo cô vào một trận chiến.

Chánh Riyadh đang ngồi bên bàn làm việc, bên cạnh là một chậu cây dương xỉ lớn và hai bức ảnh lồng khung kính, một bức là Vua Abdullah, cái còn lại là Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nayef, em trai của nhà vua. Không khí mát lạnh đến mức nổi da gà, nhưng Riyadh, với tầm vóc vĩ đại của mình, vẫn toát mổ hôi như thường, những đường chảy sẫm màu vẫn loang lổ trên áo sơ-mi của ông ở phía dưới hai cánh tay áo và những nếp gấp ở bụng.

Đối diện với ông là hai người đàn ông đang ngồi trên hai chiếc ghế gỗ nặng. Chiếc ghế thứ ba là dành cho Ibrahim. Một sĩ quan mặc quân phục đứng bên cửa. Ngay khi bước vào phòng, Ibrahim đã nhận ra bọn họ đều đến từ Đội Điệp vụ. Trong giây lát ông nhìn thấy tương lai của mình: xử tù, cảnh cáo, cái chết.

Nét mặt của Riyadh trông thoải mái; duy chỉ có cái miệng bóng nhẫy và chu ra là có vẻ khó chịu.

“Anh biết Thanh tra Ubaid của Đội Điệp vụ rồi.” Ông nói. Ibrahim gật đầu và bắt tay Ubaid.

“Họ ở đây vì vụ nạn nhân mất tích là người đã từng làm việc ở Đội Điệp vụ. Tôi biết anh đang bận bịu với việc điều tra vụ giết người nhưng tôi đã nói với họ anh sẽ vui lòng giải đáp những câu hỏi của họ thôi.”

Ibrahim ngồi xuống. “Tất nhiên rồi”

“Một phụ nữ đã từng cộng tác với ông - tên cô ấy là Sabria Gampon.” Ubaid nói.

“Đúng rồi. Tôi còn nhớ Sabria.”

“Ngày hôm qua cô ấy được thông báo là mất tích.”

“Cô ấy không còn làm việc cho Đội Điệp vụ nữa rồi mà.” Ibrahim vừa nói vừa giả bộ hơi khó hiểu.

“Thực ra là không.” Ubaid nói. “Nhưng chúng tôi nhận thấy dù sao việc điều tra là cần thiết. Hàng xóm của cô ấy đã gọi điện thông báo việc mất tích...”

“Hàng xóm của cô ấy?”

“Vâng. Thực ra là anh trai của một người hàng xóm. Theo như bên chuyển tín - những người đã thực hiện việc truy vấn cuộc gọi thì anh ta tên là Saleh Harbi. Hai người hàng xóm - là hai cô gái - đã lo lắng, và anh Harbi lại làm việc trong lĩnh vực thi hành luật, nên họ đã nhờ đến anh ta.” Như vậy Asma và Iman đã ngày càng lo về sự biến mất của Sabria. Đáng lẽ Ibrahim phải nói chuyện với họ, giải thích mọi việc. Giờ thì đã quá muộn.

“Nhưng tất nhiên anh cũng hiểu chúng tôi quan tâm tới các cộng tác viên của mình.” Ubaid nói và mỉm cười thân mật khiến Ibrahim ngay lập tức nghĩ đến việc Đội Điệp vụ đã vội vã và quá đáng đến mức nào trong việc đề bạt Omar vào vị trí phó chánh thanh tra, bởi vì ông lớn tuổi hơn.

“Vâng, đương nhiên rồi.” Ông đáp.

“Và chúng tôi có ý định sẽ điều tra việc này, bởi luôn có khả năng trường hợp mất tích kiểu này có liên quan đến công việc cô ấy từng thực hiện cho chúng tôi.” Cái cách mà ông ta dùng từ chúng tôi có ý gạt Ibrahim ra ngoài.

“Ông đã có manh mối nào rồi?”

“Chúng tôi đang tìm kiếm chồng của cô ấy.” Ubaid nói. “Không may thay, chúng tôi không có khả năng tìm được anh ta.”

Ibrahim liếc nhìn Riyadh lúc này đang đeo chiếc mặt nạ đẹp đẽ của lòng hiếu khách và sự quan tâm.

“Theo những gì tôi còn nhớ được,” Ibrahim nói một cách thận trọng, “cô ấy bị cưỡng hôn. Cô ấy đã không gặp chồng mình vài tháng rồi trước khi bắt đầu làm việc với chúng tôi, và việc đó đã từ năm năm về trước thì phải?”

“Vâng.” Ubaỉd có vẻ khó chịu khi mím môi lại. “Tuy vậy, cô ấy vẫn ở tình trạng kết hôn với người đàn ông đó - và không phải vì mục đích thị thực. Thị thực của cô ấy hết hạn rồi.”

“Tôi hiểu rồi. Vậy tôi có thể giúp gì được chăng?”

“Ông đã bao giờ gặp chồng của cô ấy chưa?” Ubaid hỏi.

Ibrahim lắc đầu. “Chưa. Tôi cho rằng họ hoàn toàn xa cách nhau.”

Ubaid trông như thể sắp bình luận về sự bất hợp lý trong việc thuê những phụ nữ độc thân để cộng tác. “Có vẻ cô Gampon hiện không làm công việc gì cả. Hàng xóm của cô ấy xác nhận như vậy.”

Ibrahim nhận ra những người láng giềng đã cố bảo vệ cô. Họ biết thị thực của cô đã hết hạn. Chỉ có điều mà họ không ngờ tới là bát cứ cuộc điều tra nào về một phụ nữ mất tích, dù người đó có đứng đắn đến đâu, thì đều đi đến kết cục là vấn đề đức hạnh.

“Tuy nhiên, cô ấy lại sống trong một căn hộ rất đàng hoàng.” Ubaid nói tiếp. “Chúng tôi đã nói chuyện với chủ nhà, người này xác nhận rằng cô ấy chưa từng quên lần đóng tiền nào.”

Quả là ý trời, và ngàn lần đội ơn Chúa rằng ông chưa bao giờ tự mình trả tiền thuê căn hộ đó. Ông đã khăng khăng đưa cô tiền mặt hằng tháng, và chưa bao giờ để người chủ nhà trông thấy mình cả.

“... Và chúng tôi đang băn khoăn không hiểu cô ấy đã trả tiền thuê nhà bằng cách nào, nên đã kiểm tra hồ sơ tài khoản ngân hàng của cô ấy và phát hiện những khoản tiền bất thường.”

“Bất thường như thế nào?”

“Hàng chục nghìn riyal đã được gửi vào - và sau đó được rút ra – đều đặn hằng tháng”

Ibrahim không thể thấy khó hiểu hơn.

“Đó là một khoản tiền lớn bất thường đối với một phụ nữ nhập cư không có công ăn việc làm gì.” Ubaid nói.

“Vâng, vậy ông cho rằng khoản tiền này...” Ibrahim vẫy tay, nhưng Ubaid không nói tiếp vào. “Vậy là gì chứ?”

Vẻ kiểu cách của Ubaid, khuôn mặt nghiêng sang bên của ông ta chau lại ngay lập tức phát tín hiệu rằng ông ta sẽ đặt vụ án sang một hướng thế; rằng ông ta có đủ bằng chứng để buộc tội vắng mặt Sabria về đạo đức; và rằng ông ta sẽ làm vậy, thậm chí rất hào hứng vì việc đó, bởi những vụ như thế này sẽ khiến cho cái dương v*t của ông ta dựng đứng và cứng như đá granite suốt cả quãng đời còn lại.

“Chúng tôi đã tìm được bằng chứng về sự có mặt của rất nhiều đàn ông trong căn hộ của cô ấy.”

“Vậy là ông nghi ngờ có mại dâm?” Giọng Ibrahim lúc này nghe như xa lạ với chính ông. Bọn họ có bằng chứng ở căn hộ của cô ấy.

“Khoản tiền gửi vào tài khoản của cô ấy là rất lớn.” Ubaid nói. “Và chúng khá là đều đặn.”

Ibrahim muốn nói với họ rằng Sabria bắt đầu làm việc cho Đội Điệp vụ một năm sau khi bị hãm hiếp, tra tấn và ngược đãi; rằng bởi quy luật trái khoáy về tiến hóa của loài người, cô đã trở nên gian xảo, ương bướng và hung hăng, những tố chất cần thiết để thực hiện công việc tay trong; và rằng chính nhờ công việc đó mà cô tìm được lối thoát cho mình. Ông chỉ muốn bóp cổ cái tên Ubaid còm nhom này và buộc ông ta phải hiểu rằng những người phụ nữ đã từng trải như vậy chỉ e sợ một thứ duy nhất: những tay đàn ông như Ubaid, những kẻ chỉ biết ngồi trên cặp mông lừa mà phán xét đức hạnh.

“Số tiền đó là từ đâu vậy?” Ibrahim hỏi.

“Chúng tôi không rõ. Tiền gửi vào lúc nào cũng là tiền mặt. Tiền rút ra cũng là tiền mặt.”

“Cô ấy có rút khoản tiền lớn nào trước khi mất tích không?”

“Không. Đúng ra là tháng này cô ấy không hề rút khoản tiền nào.”

Ibrahim gật gật. “Vậy là không phải cô ấy đã bỏ trốn.”

“Không phải”

Ibrahim liếc nhìn Riyadh lần nữa. Ông chánh thanh tra tỏ vẻ lấy làm tiếc một cách lịch thiệp về việc Đội Điệp vụ đã thuê phải một người phụ nữ vô luân đến vậy và lại bị phát hiện theo cách tai tiếng đến thế.

Ông phải cẩn trọng trong lời ăn tiếng nói của mình. Bọn họ rõ ràng đang dò xét để lôi kéo ông vào vụ này. Một người phụ nữ không thể sau một đêm mà trở thành gái mại dâm được. Và chăng phải chính ông là người đã đấu tranh đến cùng để giữ cô lại trong đội hay sao? Liệu lúc đó ông có biết cô từng làm điếm không?

“Tôi lấy làm tiếc khi nghe chuyện này.” Ibrahim nói. “Tất cả những gì tôi có thể nói là cô ấy là một nhân viên xuất săc. Cô ấy đã giúp chúng tôi phá tan một mạng lưới ăn cắp tại các cửa hàng mà chúng tôi đã theo đuổi trong một thời gian dài. Cô ấy đã rơi vào một vài tình huông rất mạo hiểm và đã xoay xở để thu thập đủ bằng chứng cho chúng tôi nhằm lật mặt những tội phạm cao cấp. Chúng tôi đều lấy làm tiếc khi cô ấy rời đội.”

Ubaid không hề lắng nghe, mà chỉ lịch sự chờ đợi Ibrahim trình bày xong. Ông ta đã biết ông có liên quan thế nào đến vấn đề đức hạnh của Sabria Gampon.

“Mại dâm là một tội nghiêm trọng.” Ông ta nói với vẻ hoàn toàn lộ rõ mục đích của mình: chúng tôi sẽ truy tố vụ này. “Chúng tôi ngờ rằng chồng cô ta đã dắt khách, nhưng nếu những gì ông nói là sự thật và cô ta không gặp chồng mình nhiều năm rồi, vậy có lẽ cô ta có một ai khác. Chúng tôi sẽ tìm ra người đó.”

A, vậy ra là tội kép, vừa mại dâm lại vừa thông dâm. Thảo nào Ubaid ra vẻ tự mãn thế.

Họ đứng lên và bắt tay nhau, còn Ibrahim thì khiến chính mình bất ngờ khi bước ra khỏi đó mà không té xỉu.

“Tôi đã rút chiếc đinh khỏi sàn nhà trước khi rời khỏi đó.” Katya nói. “Cho nên không có dấu vết về máu đâu.”

“Tạ ơn Chúa.” Ibrahim thốt lên.

Ông đi tới đi lui. Họ đang ở trong phòng vệ sinh tầng ba, thì thầm nói chuyện cạnh chiếc bồn rửa. Lúc đó đã muộn và tòa nhà gần như vắng bóng người. Nhưng dù thế nào thì Katya vẫn khiếp sợ vô cùng - nhỡ Ibrahim nổi nóng, ông có thể khiến ai đó chú ý và họ sẽ bị bắt quả tang rồi mọi chuyện sẽ còn tệ hơn thế này.

“Tôi biết cô cho rằng con trai tôi đã làm vậy.” Ông nói. “Nó đã ở đó. Tôi đã thấy vết cắt ở chân nó.”

“Ồ.” Cô nói. “Tại sao cậu ta ở đó?”

“Một hôm nó đi theo tôi. Nhưng nó không hề nói chuyện với cô ấy. Hôm cô ấy mất tích nó phải đi làm. Tôi đã kiểm chứng việc này với sếp của nó. Con trai tôi tuyệt đối không liên quan đến sự biến mất của cô ấy, tôi có thể bảo đảm điều đó.” Ông nhìn cô hoang mang. “Có ai đấy đã dựng chuyện về cô ấy.”

“Thôi được rồi.” Katya chậm rãi nói. “Nhưng cô ấy đang che giấu chuyện gì đó.”

“Tôi hiểu. Chết tiệt!”

“Chắc chắn họ đã gửi các bằng chứng tới Đội Điệp vụ trước khi tôi đến đấy.” Katya nhắc lại lần thứ ba. “Tôi đã mang tất cả các bằng chứng tôi thu thập được về nhà. Tôi đã làm việc đó ngay tức thì. Em họ tôi đã đón tôi và tôi mang chúng về thẳng nhà mình. Sau đó tôi đã tráo đổi các bằng chứng. Tôi lấy tóc và sợi vải ở những vụ án khác, ghi lại nhãn, và để chúng vào hồ sơ của Sabria, cho nên đáng lẽ nó phải giống như chỉ có phụ nữ xuất hiện ở nhà cô ấy thôi chứ.”

“Đó không phải là vấn đề. Đội Điệp vụ đã có được những chứng cứ chết tiệt của bọn họ. Tôi cho rằng bọn họ đã dối trá khi nói rằng tìm được bằng chứng về sự có mặt của nhiều người đàn ông trong nhà cô ấy. Điều đó là không thể có.”

“Ông có nghĩ bọn họ dám dựng chuyện về cô ấy đến mức ấy không?” Katya hỏi.

“Sao lại không chứ? Nó là việc dễ nhất còn gì. Chỉ cần bỏ vài sợi tóc vào giường ngủ của cô ấy. Vấn đề là, tại sao lại làm vậy?”

Katya im lặng.

“Bọn họ biết điều gì đó về cô ấy. Họ muốn ngăn chặn điều gì đó. Nó vẫn đang tiếp diễn, cho dù nó là cái gì nếu không họ không phải làm điều này.”

“Thế còn hồ sơ tài khoản ngân hàng của cô ấy thì sao?” Katya hỏi.

“Họ không nói là bao nhiêu, chỉ nói rằng cô ấy đã gửi vào tại khoản một khoản lớn hằng tháng. Đến hàng chục nghìn. Và sau đó cô ấy lạị rút tiền ra, tiền mặt.”

“Ông có cho rằng họ đã giả mạo cả bằng chứng đó không?”

“Không. Tôi không biết nữa. Việc đó sẽ khó hơn rất nhiều”

“Điều này chẳng có lý gì cả.” Katya nói. “Tại sao cô ấy lại gửi tiền vào rồi lại rút tiền ra chứ? Tại sao không giấu tiền ở đâu đó khác?”

“Tôi không rõ nữa.” Ông nói. “Tôi tin chắc có chuyện tồi tệ đã xảy ra với cô ấy, và cho dù có là chuyện gì đi nữa, thì câu trả lời nằm ở Chamella Plaza. Những phụ nữ mà cô ấy đã gặp gỡ đó đang giao dịch gì đấy. Mà tôi lại không thể tự mình đến đó. Chết tiệt!” Ông đấm tay vào tường. Tấm gương rung lên.

“Tôi sẽ trở lại đấy.” Katya nói. “Và sẽ tìm hiểu những gì có thể.”

Ông thôi không đi lại nữa. “Cảm ơn cô, Katya. Tôi xin lỗi vì quá nóng giận. Tôi rất biết ơn sự giúp đỡ của cô. Và làm ơn hãy thận trọng. Những người phụ nữ ấy không có ở đó. Đội Điệp vụ có thể đã phát hiện ra vấn đề về khu thương mại ấy và có khả năng họ đã cử người đến. Đừng để bọn họ nhận ra cô nhé.”

“Tôi sẽ cẩn trọng.”

“Tôi phải gọi điện thoại đã.”

“Được rồi.” Cô nói.

Ông ra ngoài trước khi cô kịp ẩn nấp. Cô nghe tiếng chân ông bước vội phía đầu kia hành lang trước khi cô nhận ra ông quên không gõ cửa ra hiệu cho cô biết có an toàn để ra ngoài không. Ông chạy trở lại, gõ cửa, và phóng như bay về phía cầu thang bộ.

Việc khám phá ra rằng bản thân anh không phải người duy nhất là thứ bùa ngải có tác dụng chỉ trong một số trường hợp nhất định. Anh bị từ chối được nhận việc, hay anh bị tổn thương bởi một người bạn. Đừng lo, điều đó xảy đến với bất cứ ai. Ngoài bối cảnh thích hợp đó, thì thật choáng váng. Mình không phải người đàn ông duy nhất mà cô ấy yêu. Mình không phải người đàn ông duy nhất chung giường với cô ấy.

Ông vẫn chưa choáng váng bởi sự thật đó vì ông không tin đó là sự thật, nhưng vết rạn trên tấm kính đang ngày một lớn.

Ông gọi cho Fawzi, một đầu mối của ông ở Bộ, để hỏi xem liệu anh ta có tìm được địa chỉ của tay chủ cũ của Sabria hay không. (Ông không muốn thừa nhận hắn là chổng của cô). Với một sự vô tâm đến điên tiết, Fawzi nói: “Thật ra là được. Có cho anh đấy.”

Ibrahim sao lại địa chỉ. Fawzi đã hẳn ngồi trên cái địa chi đó cả mấy ngày nay rồi, nhưng quá ư là lười nên chưa chuyển nó đi. Ibrahim không thể giải thích được rằng việc đó quan trọng đến mức nào. Ông đã vô cùng mạo hiểm khi hỏi tìm địa chỉ này rồi.

“Cảm ơn anh đã giữ im lặng về việc này.” Ibrahim nói.

“Hẳn rồi. Có phải một phần của vụ giết người hàng loạt anh đang lo không?”

“Không. Một vụ trước đó.”

“Tôi sẽ không nói gì đâu.”

Ibrahim không chắc anh ta có tin ông hay không nhưng dù sao ông vẫn biết ơn Fawzi.

Địa chỉ ghi ở Karantina, không xa lắm so với vùng phụ cận gần đó là Kandara. Khu ổ chuột đó có cái tên tiếng Anh lai căng này do từng là một khu cách ly trong vài trăm năm liền khi các bệnh dịch định kỳ quét qua thành phố. Nó từng ở cách xa trung tâm thành phố đến mức được coi là an toàn. Ngày nay nó đã gần thành phố hơn, được nối bởi một con đường cao tốc xấu xí. Chiếc cầu vượt cắt ngang khu phụ cận và phân cách khu nhà máy lọc dầu khổng lồ vẫn thải khói dầu bẩn vào không khí vốn đã khốn khổ vì muỗi và mùi của chất thải chưa qua xử lý.

Phía dưới đường cao tốc là những khu nhà ổ chuột thuộc loại mà nếu so sánh thì phải xếp khu ổ chuột dưới cầu phố Sitteen ờ Kandara vào hàng cao cấp. Người dân ở đấy hầu hết là người châu Phi, những người đàn ông và vợ, đám con không đếm xuể trần truồng và ốm yếu chạy lông nhông trên những đường phố nghẹt thở bởi mùi rác rưởi. Họ đã đốt hộ chiếu ngay khi đặt chân đến đây để không bị gửi trả về những nơi còn tồi tệ hơn thế. Ít ra thì ở đây còn có chợ ma túy và mại dâm. Iít ra thì ở đây cảnh sát còn làm ngơ. Ít ra thì ở đây chính quyền còn để họ yên, cho dù họ bị cô lập dưới khu cầu vượt này, nơi mà sự tàn phá của muỗi đã dẫn đến việc bùng phát dịch sốt rét và sốt xuất huyết, còn nạn mại dâm tràn lan thì đưa đến bệnh viện những ca nhiễm AIDS mới mỗi ngày. Khu cách ly hiện đại chính là sự thờ ơ của chính quyền.

Ai nói chính quyền không hiểu công lý nào? Ibrahim cay đắng nghĩ khi ông lái xe qua các con phố. Chính quyền chỉ cần biết làm thế nào để quản lý được Karantina mà thôi. Họ lờ đi đĩa cân với một bên đang ngày càng lệch xuống thấp hơn do sức nặng của nạn trộm cắp, tài sản phi pháp, nhà chứa, và các tệ nạn băng hoại đạo đức đã khiến cho nơi này chiếm tỷ lệ các vụ án mạng cao nhất ở Jeddah. Khi luật pháp kiếm tìm công lý, nó sẽ cân đối quy mô với một chiều hướng sa sút đồi bại và đột ngột như cú chém của lưỡi dao đao phủ. Đó chính là cách mà chính quyền đã dẹp các khu chợ ngày thứ Sáu nhộn nhịp trên phố Yazeed Ibn Naeem, nơi người dân địa phương buôn bán thực phẩm, quần áo, đồ đạc, và các dụng cụ gia đình – tất cả đều là đồ ăn cắp. Cảnh sát đã vây bắt ba nghìn năm trăm tên trộm chỉ trong một chiến dịch. Ibrahim hiểu rằng đó chỉ là giả bộ của công lý. Chẳng còn gì tồi tệ hơn là một cái tát đột ngột từ bàn tay giận dữ của người cha lỡ đãng.

Ông không thấy có gi bất ngờ khi Halifi đi đến một kết cục ở nơi đây, tại cái nghĩa địa hy vọng của thành phố này, nhưng nó khiến ông lo lắng. Mỗi khi Sabria nhắc đến hắn, cô đều để lại ấn tượng về một kẻ đã gắng hết sức để tỏ ra giàu có, đáng tin và đáng kính. Hắn điều hành một công ty nhập khẩu hoàn toàn trong sáng nếu dựa trên những con số trong sổ sách, nhưng mặt khác Halifi nhập khẩu phụ nữ, lừa gạt họ bằng những lời hứa hẹn về các công việc được trả lương cao như giúp việc và rồi bán họ cho các khách hàng giàu có muốn có quan hệ tình dục bí mật - kiểu người có thể sống trong nhà của anh ta đồng thời lo toan các công việc nấu nướng và dọn dẹp. Trong vài trường hợp, Halifi bán phụ nữ cho các dịch vụ chiêu đãi viên, hoặc thậm chí là các chủ chứa độc lập. Hắn ta hiếm khi nào từ chối một lời đề nghị nào nêu giá cả đủ cao, và có không biết bao nhiêu phụ nữ ngoại quốc nhẹ dạ đã đến đây.

Ibrahim có thể theo dõi Halifi từ nhiều năm trước nhưng Sabria không muốn vậy. Cô không muốn cố tháo gõ quan hệ với hắn ta về mặt pháp lý bởi điều đó chỉ làm sống lại quá khứ. Trong mấy tháng đầu khi cô và Ibrahim bắt đầu gặp gỡ nhau, cô đã ba lần nói về Halifi trước khi gạt hắn vào cõi hư vô.

Tòa nhà chung cư đó không đánh số nhưng các tòa nhà chung quanh thì có, nên ông vẫn có thể nhận ra đã tìm đến đúng địa chỉ. Đó là một công trình bê-tông đã cũ, bẩn thiu và giản đơn. Ở một khu vực bình thường thì hai gia đình có thể sống ở đấy. Còn ở Karantina, đó chỉ có thể là hang ổ ma túy.

Ông có cảm giác là Halifi không sống ở đây. Có vẻ ông chỉ sắp bước vào một văn phòng nhỏ hơn dành cho việc kinh doanh của hắn. Ibrahim tức giận đến mức ông phải ngồi lại trong xe khoảng chừng năm phút và tự nhắc mình rằng ông chỉ đến đấy để tìm Sabria, chứ không có hành động ngu dại nào hết.

Cánh cửa trước đã long cả bản lề. Khi ông đẩy cửa vào, nó đổ ập vào bức tường phía sau, ông phải bước qua phần ngả xuống để vào trong. Trong đó tối thui, một hành lang dài hiện ra với hai ô cửa ở phía cuối đều đang để ngỏ. Có tiếng ồn ào phía trong đó nhưng không có dấu hiệu gì cho thấy là chủ nhà đã nhận ra có kẻ xâm phậm.

Ông bước vào căn hộ bên phải. Căn phòng đầu tiên chỉ có một chiếc ghế sô-pha và một chiếc TV. Chiếc sô-pha đã lòi hết ruột ghế. Căn phòng thứ hai ông thấy Halifi. Hắn đang ngồi bắt tréo chân trên một chiếc đệm cũ ở góc phòng. Một phụ nữ trẻ tuổi đang ngồi trên một cục bê-tông bên cạnh hắn và hút thuốc phiện. Cô ta trần truồng, phần mông và lưng dưới lằn những vệt đỏ.

“Mahmoud Halifi.” Ibrahim lên tiếng.

Người phụ nữ quay lại. Cô ta là người nhập cư, có lẽ là người Philippines. Cô ta chớp mắt rồi quay lại phía Halifi, đưa cho hắn ống thuôc rồi đứng dậy. Cô ta rời khỏi phòng như thể một bà nội trợ Hồi giáo mẫu mực lánh mặt ngay khi chồng mình có khách. Khi đi qua Ibrahim nơi ngưỡng cửa, cô ta đưa một tay tóm lấy bên vú trái của mình rồi lắc lắc nó về phía ông một cách thích thú.

Ibrahim đã chuẩn bị tất cả những thủ thuật khôn khéo để Halifi phải mở miệng, nhưng chứng kiến trạng thái tỉnh táo kiểu này, ông hiểu rằng tất cả đều vô ích.

“Tôi cần tìm Sabria Gampon.” Ông nói.

Halifi chẳng có vẻ gì hốt hoảng cả, thậm chí ngay cả khi Ibrahim xốc hắn lên rồi ném hắn vào tường. Khi Ibrahim hỏi, “Cô ấy đang ở đâu?” thì Halifi bất ngờ phá lên cười, một tràng cười hô hố nghẹt giọng và nói Ồ có, tao có nhớ con đó, một con điếm đời xưa. Ibrahim đấm một quả làm vỡ mũi Halifi và ném sầm hắn vào tường, nhưng hắn vẫn không có vẻ gì là hiểu được sự nghiêm trọng của vấb đề. Hắn chỉ quặn người lại lăn lộn, bò lê bằng đầu gối, và nhìn máu chảy nhỏ giọt từ miệng mình trên nền xi-măng. Hắn ngẩng lên nhìn Ibrahim.

“Sabria ở đâu?” Ibrahim gằn giọng, mặc dù trong bụng ông tự nhủ rằng đây là một sai lầm, ông chỉ phí thời gian.

“Làm sao tao biết được?” Halifi chảy nhỏ giọt cả một bãi máu nữa và ngồi ngồi xổm xuống. “Tao không gặp cô ta nhiều năm rồi.”

Ibrahim chỉ muốn giết hắn. Thậm chí đến lúc này, sau tất cả sự im lặng mà Sabria đã chịu đựng để chôn chặt gã đàn ông đó, sự ghê tởm và căm phẫn của Ibrahim vẫn còn nguyên vẹn. Chuyện thật dễ dàng. Nhặt một ống tiêm rỗng trên sàn nhà và tiêm một bong bóng cỡ đồng một trăm riyal vào cổ hắn. Ngay cả khi cảnh sát có quyết định điều tra cái chết của một tên xì ke mà túy ở khu Karantina, thì họ cũng chẳng thể tình nghi ai khác hơn ngoài những tên nghiện trong toà nhà này cả. Nhưng ông không mạo hiểm làm điều đó. Chẳng có gì ràng buộc ông với gã đàn ông kia hay cái nơi này hết.

“Nếu cô ta đã biến mất,” Halifi nói, “thì tức là cô ta đã chạy trốn. Đó là cách cô ta luôn luôn làm.”

Ibrahim đá hắn ngã trên sàn nhà rồi bỏ đi.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.