Cổ Mộ Có Một Ổ Xà

Chương 26




Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Trải qua hai ngày bôn ba, chúng tôi rốt cuộc đã tới sông băng nằm trong khe núi Tiểu Thánh. Trên đầu ai nấy đều bám đầy tuyết vụn, mệt nhừ tử. Nhưng vào lúc nắng chiều ngả về tây, đứng từ trên cao phóng mắt nhìn ra xa, phong cảnh xung quanh lại khiến chúng tôi say mê ngây ngất.

Nhưng hành động của Muộn Du Bình lúc này lại khiến chúng tôi kinh hãi. Chẳng ai hiểu vì sao hắn lại quỳ rạp trước núi tuyết mà hành đại lễ hết sức kính cẩn đến thế, tựa như hắn có một thứ cảm tình đặc biệt đối với ngọn núi kia vậy.

Bái lạy xong xuôi, hắn liền trở về với vẻ mặt “xong chuyện rồi cóc quan tâm gì nữa, chỉ ngủ phần tôi”, trèo lên một phiến đá trần mà nhắm mắt nghỉ ngơi. Tôi không khỏi nổi lòng hiếu kì, quả thật không thể nhìn thấu trong đôi mắt đen sâu không thấy đáy của hắn rốt cuộc còn ẩn giấu những gì?

Suốt hành trình đến đây, mọi người đều hiểu rõ tính hắn, đặc biệt là mấy người chúng tôi, nên cũng không ai hỏi han gì vì đoán trước hắn sẽ chẳng trả lời. Có điều, cứ xem ánh mắt của nhóm Trần Bì A Tứ thì rõ ràng họ cũng rất bực mình. Chỉ có Thuận Tử là không để bụng, có lẽ hắn tưởng Muộn Du Bình cũng là người Triều Tiên.

Mỗi người ôm một bầu tâm sự riêng, vừa ngắm phong cảnh vừa nghỉ ngơi, lát sau ai nấy đều khôi phục thể lực. Bàn Tử nhen lửa đốt lò không khói, chúng tôi quây lại đun trà sưởi ấm, đồng thời Thuận Tử cũng bắt đầu mở lớp giảng bài, hớp vài hơi rượu nóng cho lại sức rồi chỉ mấy ngọn núi tuyết xung quanh, giảng giải nguồn gốc của chúng cho chúng tôi nghe.

Đây là bổn phận làm hướng dẫn viên du lịch của hắn, thằng nhóc này cũng tận tâm với nghề dữ lắm.

Hắn kể rằng trong truyền thuyết về núi Trường Bạch, hai ngọn núi tuyết Tiểu Thánh và Đại Thánh cùng với núi Tam Thánh thần bí kia, vào thuở hồng hoang vốn chỉ là một ngọn núi tuyết. Năm ấy Đại Vũ (1) trị thủy, khi đi ngang qua nơi này ổng vung lưỡi đao thần bổ hai cái, mới khiến cho núi chẻ làm ba.

Chuyện là trước thời giải phóng, khi nơi đây còn chưa mở cửa, anh ta từng nghe ông nội kể lại rằng khi lần lượt leo lên ba ngọn núi tuyết này sẽ thấy phong cảnh xung quanh hoàn toàn khác nhau. Ví như, leo lên núi Tiểu Thánh sẽ nhìn thấy cả hai ngọn Tam Thánh lẫn Đại Thánh, nhưng lên núi Đại Thánh lại chỉ thấy Tam Thánh mà không thể nhìn ra núi Tiểu Thánh, kỳ lạ ghê gớm. Mà kỳ lạ nhất chính là đứng trên đỉnh Tam Thánh không những có thể nhìn rõ hai ngọn núi thánh lớn nhỏ, mà còn thấy xa xa về phía sau núi Tam Thánh có một ngọn núi tuyết còn đồ sộ hơn Tam Thánh nhiều, gọi là đỉnh Thiên Thê. Ngọn núi kia quanh năm bị mây mù che phủ, không thể nhìn rõ diện mạo thực. Tương truyền trên núi có một cái thang trời bắc thẳng lên Thiên cung, là con đường nối liền nhân gian và cõi bồng lai tiên cảnh. Vào lúc trời quang mây tạnh, có thể thấy giữa đỉnh Thiên Thê và hai tòa Đại Thánh Tiểu Thánh xuất hiện một dải hào quang y hệt cầu vồng, tựa như một nét bút thần tiên tô điểm, lộng lẫy tuyệt đẹp, cũng lạ lùng hết sức.

Bàn Tử nghe xong bèn bảo với chúng tôi: “Truyền thuyết này chắc chắn là sai bét rồi. Thiên cung rõ ràng nằm trên núi Tam Thánh, sao lại chạy đến đỉnh Thiên Thê được. Người kể lại cái truyền thuyết này đảm bảo có vấn đề về mắt.”

Hoa hòa thượng ngẫm nghĩ rồi lắc đầu giải thích: “Không đâu, trước khi đến đây tôi từng nghiên cứu truyền thuyết này rồi. Tôi ngờ rằng khi xây dựng Vân Đỉnh Thiên Cung, tuyết trắng trên ngọn Thiên Thê và những ngọn núi xung quanh khiến ánh sáng bị chiết xạ sinh ra ảo ảnh (2). Do ngọn Thiên Thê quanh năm mây mù, hơi nước lơ lửng tạo thành bức màn phản xạ, in lên hình ảnh Vân Đỉnh Thiên Cung lẩn khuất trong sương, trông cứ như thiên cung thật sự nằm trên trời vậy.”

Hiện tượng ảo ảnh này phần lớn phát sinh giữa những hồ nước nằm trong sa mạc, chứ rất hiếm khi xảy ra trên núi tuyết, chỉ e cũng không phải ngẫu nhiên mà có lẽ liên quan tới việc nơi đây là ngọn nguồn của long mạch. Hiện tượng này trong phong thủy gọi là “Ảnh cung”, tôi mới thấy trong sách cổ một lần, cũng không biết cụ thể có điểm gì cần lưu ý. Nơi đặt bảo huyệt thường phát sinh những chuyện kì quái, có xảy ra chuyện gì cũng không lạ.

Chúng tôi nói chuyện bằng tiếng địa phương. Tôi nói tiếng Hàng Châu, đám Hoa hòa thượng nói tiếng Trường Sa, Thuận Tử nghe không hiểu gì, cũng chẳng thèm để ý. Giảng giải về phong cảnh xong, hắn đứng lên nói với chúng tôi: “Quý khách tạm thời nghỉ ngơi một lát, ăn chút gì đó, sau đấy tự do hành động, nhưng xin hãy nắm vững thời gian. Trời sắp tối rồi, ở đây cũng không có cách nào dựng lều, trời tối một cái là đường không dễ đi đâu. Chúng ta còn phải qua đêm, nên tìm chỗ tương đối bằng phẳng, tối đến dễ chừng sẽ có gió đấy.” Nói rồi hắn rót trà phân phát cho chúng tôi, còn bản thân thì giữ ý, ra xa xa mà nghỉ ngơi.

Tôi xem đồng hồ, thấy còn hơn một tiếng nữa mặt trời mới lặn xuống núi. Thời gian nói ngắn thì chẳng ngắn, bảo dài cũng không dài, nghỉ ngơi như vậy cũng đủ rồi, có lẽ nên làm việc nghiêm chỉnh thôi.

Nhưng mà bốn bề tuyết phủ trắng xóa, không có chút dấu tích đặc biệt nào. Nếu có lăng bồi táng ở đây thì nhất định cũng đã bị tuyết chôn vùi, cửa vào hẳn phải nằm trong lớp tuyết dưới chân chúng tôi. Môi trường trên núi tuyết khác xa so với nơi đất bằng, cả đám đều không có kinh nghiệm nên chẳng biết phải hành động thế nào.

Chúng tôi đứng cả lên, vây quanh Trần Bì A Tứ, định bàn xem bước tiếp theo phải làm sao mới ổn.

Trần Bì A Tứ trải qua một phen vật lộn vất vả như vậy, còn chưa hồi phục lại. Lang Phong cầm bầu rượu đưa cho lão, bảo lão uống hai ngụm. Hoa hòa thượng giúp lão xoa bóp sau lưng cho máu dễ lưu thông, sắc mặt lão mới dần dần trở lại bình thường, thế nhưng cả người thoạt nhìn vẫn có vẻ cực kỳ uể oải. Nghe chúng tôi hỏi, lão chỉ đưa mắt liếc qua loa thế núi xung quanh rồi bảo: “Vị trí bảo huyệt nằm ngay dưới chân chúng ta. Ta cũng chưa có kế nào hay, giờ cứ xúc thử vài xẻng xem dưới mặt tuyết có gì rồi hẵng tính tiếp.”

Mọi người gật đầu. Thật ra tôi cũng biết không có lựa chọn nào tốt hơn nữa, cái gọi là đổ đấu, chỉ khác những điểm râu ria chứ cơ bản cũng chỉ có thế: sau tầm long điểm huyệt chính là tham huyệt định vị. Điểm khác biệt giữa các thời đại chỉ là công cụ dùng để thăm dò huyệt, chứ quá trình gần như đều rập một khuôn. Cho nên mới nói nếu không có giây phút phấn khích khi mở quan tài thì trộm mộ thật ra là công việc buồn tẻ số một.

Tuyết mềm hơn bùn rất nhiều, xẻng thăm dò đào rất thuận lợi. Đám người Hoa hòa thượng tay chân cực kỳ lanh lợi, trên mặt tuyết rất nhanh đã có tới mười mấy hố thăm dò. Có điều, hình như bất cứ cái xẻng nào đào xuống độ sâu chừng 5, 6 mét trên sườn dốc tuyết phủ cũng đều không thể đào tiếp được nữa. Bàn Tử cứ đinh ninh vì Diệp Thành èo uột như con khỉ ốm mới thành ra thế, bèn chạy đến giúp một tay, dùng sức mạnh bạo cũng chỉ bập vào thêm một chút, mỗi lần rút ra nhìn thử đều thấy xẻng vẫn trống trơn.

Hoa hòa thượng xem xét lưỡi xẻng, phát hiện trên đầu nhọn của xẻng có bám ít tinh thể băng liền hiểu ra đầu đuôi sự việc. Bên dưới là một sông băng do mặt đất đông lạnh và băng giá tạo thành, cứng như bê tông, xẻng đâm không thủng nổi, cũng không lôi ra được thứ gì.

“Ở đây tuyết đã rơi mấy ngàn năm, tuyết đọng bị ép xuống lâu ngày hóa thành băng rồi. Anh nói xem, có khi nào lăng bồi táng cũng bị đóng cứng dưới băng rồi không?” Bàn Tử hỏi.

Chúng tôi đều gật đầu, khả năng này rất lớn. Thế nhưng xẻng Lạc Dương không thể đào vào trong băng, coi như chúng tôi biết có đồ ở bên dưới đi, cũng vẫn tìm không nổi.

Phan Tử bảo chúng tôi: “Trở ngại lớn nhất là lớp tuyết này, chúng ta có thuốc nổ không? Hồi tôi còn trong quân ngũ có nghe vài người anh em kể, lúc bọn họ ở núi Đại Hưng An, đại đội sản xuất ở nơi đó sẽ leo lên sườn núi tuyết để ‘lọc máu’ định kỳ. Chỉ cần đào một cái lỗ rồi đặt mìn là có thể cho nổ hết đống tuyết này, đỡ lo biết bao nhiêu. Cho nổ hết tuyết rồi thì tình hình bên dưới nhìn một cái biết ngay, việc tìm kiếm của chúng ta sẽ tiện hơn rất nhiều, cũng đỡ phải đào đạo động.”

Tôi hiểu rõ anh nói gì. Mỗi lần tuyết rơi sẽ tạo ra một tầng tuyết, giữa các tầng đều hở ra một khoảng, chỉ cần cho nổ một quả mìn nhỏ, cả ngọn núi sẽ rung chuyển, cả tầng tuyết dày sẽ trượt xuống, tạo thành phản ứng dây chuyền, rốt cuộc tầng này sẽ kéo theo tầng khác sập xuống.

Khu rừng trên núi Đại Hưng An có vài ngọn núi tuyết nhỏ. Để tránh tuyết đọng quá dày sinh ra tuyết lở làm tổn hại đến khu rừng, đội công binh địa phương phải thường xuyên dùng sức người xử lý sau mỗi trận tuyết lớn. Hồi đó điều kiện thiếu thốn, toàn do nhân viên tự mình trèo lên đào lỗ đặt bộc phá, ít nhiều đều có nguy hiểm, giờ thì họ toàn nã pháo cối cho tiện.

Hoa hòa thượng nắn nắn lớp tuyết: “Thuốc nổ chúng ta có, nhưng cậu nhìn lên đỉnh đầu mà xem, nổ mìn ở chỗ này có khác gì tự sát?”

Chúng tôi ngẩng đầu nhìn lên, phía trên là dốc tuyết vạn trượng cao ngất, trước sau kéo dài liên miên, nối liền với mạch núi Hoành Sơn như một con rồng tuyết. Chúng tôi ở dưới này, thấy mình chỉ như mấy con kiến, thật sự quá nhỏ bé. Phía trên chỉ cần rải xuống một nắm tuyết là mấy mạng chúng tôi yên giấc ngàn thu tại trận luôn.

Phan Tử nhìn xong cũng hơi choáng váng, có điều anh vẫn khăng khăng nói: “Núi Trường Bạch là thắng cảnh du lịch, ở đây thi thoảng cũng tiến hành “lọc tuyết”, tôi thấy vấn đề không quá lớn. Nếu anh không đồng ý với phương án lọc tuyết này, thì chúng ta nên tranh thủ cuốn gói đi cho sớm chợ. Trên núi tuyết mà anh muốn tìm đồ bị vùi trong tuyết thì còn khó hơn mò kim đáy biển, Tôi nói cho anh biết, trên núi tuyết xứ Tạng nếu muốn tìm đội leo núi gặp nạn cũng phải làm vậy thôi, không có cách nào tốt hơn đâu. Cụ nhà anh đã tỉnh, cho dù xác định đúng huyệt, anh vẫn phải dùng thuốc nổ, bằng không thì đạo động cũng không tài nào đào ra được. Trái pháo này, kiểu gì anh cũng phải cho nổ thôi.”

Tôi thấy không ổn, bèn phản đối: “Chuyện này quá mạo hiểm, tôi thà tốn thêm chút thời gian đào bằng xẻng còn hơn.”

Phan Tử lại nói: “Cậu Ba à, chính vì không có thời gian nên chúng ta mới phải dùng thuốc nổ, chứ nếu thời gian dư dả thì đã chờ đến mùa hè mới quay lại rồi. Dù thế nào cũng phải thử một lần, ông Ba còn đang chờ chúng ta.”

Hoa hòa thượng xua tay cản chúng tôi lại, chỉ chỉ Lang Phong: “Các anh đừng cãi lộn nữa. Lời của chúng ta thì tính là gì, nghe ý kiến chuyên gia cái nào.”

Tôi ngớ ra mất một lúc. Suốt cả hành trình, tôi vẫn không biết Lang Phong đóng vai trò gì trong nhóm bọn họ. Nghe Hoa hòa thượng nói vậy tôi thấy thật khó tin, không lẽ hắn là chuyên gia về mặt này sao? Mấy người đều nhìn về phía Lang Phong xem hắn phản ứng thế nào.

Lang Phong thấy mọi người nhìn mình chằm chằm thì có hơi ngại ngùng, nói: “Tôi cho rằng có thể làm theo lời anh Phan. Thật ra trước khi đến tôi đã đoán trước sẽ xảy ra tình huống này nên đã chuẩn bị sơ sơ rồi. Hơn nữa tôi là dân chuyên nghiệp, có thể khống chế sức nổ của bộc phá, tiếng nổ sẽ không lớn lắm, thật ra chỉ cần tạo một chấn động rất nhỏ dưới mặt tuyết là có thể đạt được mục đích, có khi chỉ cần một dây pháo nhỏ là xong xuôi.”

“Anh chắc chắn không?” Bàn Tử hỏi: “Chúng ta chỉ phá băng chứ không nổ mộ, chuyện chúng ta làm bây giờ tương đương với việc nổ pháo trong khối đậu phụ, bảo anh nổ ra một cái lỗ trong khối đậu phụ sao cho nhìn bề ngoài không thấy gì cả, đây là thao tác cực kỳ tinh vi đó.”

Lang Phong gật đầu: “Hồi tôi làm thợ mỏ đã đào không dưới một vạn lỗ pháo, huyện này chưa tính là khó.”

Hoa hòa thượng nhìn sang phía chúng tôi, chỉ chỉ vào Lang Phong: “Các cậu đừng thấy bình thường anh ta ít nói mà lầm, gã này là thợ mỏ thâm niên hai mươi năm đấy, mười bốn tuổi bắt đầu đào lỗ pháo, đã cho nổ san bằng không dưới hai mưoi ngọn núi mới khiến cụ nhà này để mắt đến, vào nghề chưa được một năm người ta đã phải xưng là Pháo thần. Nói đến thuốc nổ thì không ai so được với anh ta đâu.”

“Cậu chính là Pháo thần?” Phan Tử đứng một bên trợn tròn hai mắt, hiển nhiên là đã từng nghe danh hiệu này.

Lang Phong có vẻ ngượng nghịu, gãi đầu gãi tai, chẳng bù cho thái độ lạnh lùng mấy hôm trước: “Chỉ là một cái biệt danh bạn trong nghề nói quá lên cho vui thôi mà.”

Hoa hòa thượng bảo hắn: “Thôi đừng khiêm tốn nữa, đây chính là lúc phát huy sở trường của chú đấy.” Sau đó quay lại nói với chúng tôi: “Lang Phong đã ra tay, xưa nay chưa từng thất bại, thứ gì anh ta nói nổ thành bao nhiêu mảnh thì khắc nổ ra từng ấy mảnh, tôi tuyệt đối tin tưởng. Nếu anh ta đã nói thế thì tôi nghĩ có thể thử một lần. Các anh có ý kiến gì không?”

Bàn Tử liếc liếc tôi. Hắn có kinh nghiệm thám hiểm trên đất tuyết, từng nghe nói về rất nhiều vụ tuyết lở, dĩ nhiên cũng hơi dao động, có điều hắn ở phe tôi, nhìn sang tôi là muốn tôi tỏ thái độ.

Tôi ngẫm nghĩ, thấy đám người Trần Bì A Tứ đúng là tập đoàn trộm mộ chuyên nghiệp, không như chú Ba vẫn còn tương đối truyền thống, ưa dùng những biện pháp cũ để lọt vào mộ cổ. Sự ỷ lại vào thuốc nổ của những người này đã đến mức độ chúng tôi không thể tưởng tượng nổi. Hơn nữa Hoa hòa thượng đã nói thế thì hẳn tên Lang Phong này cũng phải có năng lực tương đối.

Vì thế tôi hạ quyết tâm, gật đầu với Bàn Tử. Cứ liều đi, thật ra lúc này làm gì còn đường lui nữa, tôi không đồng ý cho nổ liệu bọn họ có chịu nghe không?

Thấy chúng tôi đồng ý rồi, Lang Phong và Diệp Thành lôi ra một cái xẻng Lạc Dương đặc biệt, bắt đầu lắp lưỡi xẻng chuyên dụng, đào vài hố thăm dò trên mặt tuyết.

Sau đó Lang Phong dùng vài thứ bột trộn ra một loại thuốc nổ, chôn thật sâu vào bên trong một số kíp nổ có sức công phá thấp. Tôi biết loại thuốc nổ này vốn được điều chế một cách đặc biệt, sức nổ đại khái chỉ bằng khoảng mười viên pháo đùng, chuyên dùng để đục lỗ phá nát phong thạch trong mộ cổ. Được Lang Phong điều chỉnh lượng thuốc lại một lần nữa, sức nổ đảm bảo càng nhỏ đi.

Dân trộm mộ công nghệ cao phần lớn đều có kiến thức tương đối về khoa học kỹ thuật, cần bao nhiêu kíp mìn sức nổ nhỏ, có thể cho nổ ở chỗ nào để tạo ra một lỗ người chui lọt, những chuyện này tôi đã biết từ lâu, có điều được thấy tận mắt thì đây vẫn là lần đầu tiên.

Thuận Tử đang quanh quẩn uống trà, nhác thấy cảnh đó liền phát điên. Hắn đã từng thấy người hành hương cắm quốc kỳ, gặp đám săn trộm thừa lúc đêm tối lén mò ra, cũng từng gặp dân vượt biên trái phép, nhưng trải qua trăm đắng nghìn cay trèo lên đây, lấy thuốc pháo ra đốt cho nổ banh núi thì đảm bảo mới thấy lần đầu. Thoắt cái hắn đã chạy đến cản Hoa hòa thượng, hét lên: “Các vị làm gì thế? Quý khách, các vị điên rồi — !”

Nói chưa dứt lời, Lang Phong ở đằng sau đã phang cho hắn một nhát cuốc chim bất tỉnh nhân sự. Thuận Tử ngã sấp xuống tuyết, được kéo sang một bên.

Tôi nhìn mà thấy gáy phát đau, bụng bảo dạ làm hướng dẫn viên du lịch cho bọn này thật đến thảm, quãng đường đi dài lê thê không nói, còn phải chịu đựng cảnh này. Có điều, nghĩ đi nghĩ lại thì cũng không còn cách nào khác. Thuận Tử có thể bao dung nhẫn nhịn cái gì, chứ tuyệt đối sẽ không dễ dàng tha thứ chuyện chúng tôi phá núi, nói cho cùng hắn còn phải dựa vào nơi này để kiếm ăn, không đánh ngất đi thì không sao tiếp tục triển khai công việc được.

Bàn Tử hỏi Hoa hòa thượng: “Sau này chúng ta biết làm gì với thằng nhãi này đây?”

Hoa hòa thượng đáp: “Tạm thời cứ mặc xác nó, chúng ta còn cần nó dẫn đường để quay về. Cứ đưa nó vào địa cung, vứt sang một bên là được. Đến lúc về nhét thêm ít tiền cho nó thì nó còn đòi hỏi gì nữa?”

Lang Phong tỏ ra cực kỳ chuyên nghiệp, gần như không để chúng tôi nhúng tay vào. Hắn tự thao tác một mình, kíp nổ được sắp xếp chỉn chu theo một loại mô hình kết cấu chịu lực. Hắn phất tay ra hiệu cho mọi người leo lên một phiến đá lộ thiên, đề phòng lát nữa phản ứng dây chuyền lại kéo chúng tôi trượt xuống cả lũ.

Tôi cứ tưởng tiếng pháo nổ phải lớn lắm, ít nhất cũng phải gây nên một cơn sóng tuyết cơ. Ai dè lúc Lang Phong nhấn một phát vào bộ kích nổ, tôi gần như không nghe thấy âm thanh gì, chỉ thấy mặt tuyết bằng phẳng lập tức rạn ra, sau đó từng mảng từng mảng lớn tuyết đóng thành khối bắt đầu cuồn cuộn trút xuống dưới sườn dốc như thác đổ, sườn núi cũng đột ngột dốc hơn hẳn, dưới chân chúng tôi thoáng cái đã trống hoang hoác.

Có điều cảnh tuyết lở cũng không kéo dài. Khi những tảng tuyết dừng lại, dưới sườn dốc tuyết phủ lộ ra một tầng băng tuyết lẫn lộn gồ ghề màu trắng vẩn đục, đây chính là mặt ngoài của sông băng kỷ đệ tứ mà sách giáo khoa thường nói.

Bàn Tử bên cạnh đang nhắm nghiền mắt, vẫn tưởng mìn chưa nổ. Tôi lay lay mấy cái hắn mới mở mắt ra, thấy thế liền kinh ngạc kêu lên: “À há, đúng là không nghe tiếng gì thật, thánh quá.” Sau đó lập tức thấp thỏm lo lắng ngước nhìn trên đỉnh đầu.

Không biết là do may mắn hay do kỹ thuật của Lang Phong quá cứng tay, ngoại trừ một ít tuyết trên đầu chúng tôi trượt xuống do mất lực chống bên dưới thì hình như không vấn đề gì. Chờ thêm một lát cũng không thấy có chấn động gì lớn, chúng tôi dần dần bớt căng thẳng.

Tôi giơ ngón cái về phía Lang Phong, Phan Tử cũng vỗ vỗ vai hắn, ra dấu rằng cậu thật lợi hại.

Lang Phong ngượng nghịu mỉm cười. Nhưng khóe miệng của hắn còn chưa kịp nhếch hết lên thì bất thình lình một khối tuyết lớn đã nện trúng đầu.

Sắc mặt cả đám đều biến đổi. Bàn Tử vội vàng vẫy tay với chúng tôi, nhỏ giọng nói: “Suỵt!”

Chúng tôi vô thức im bặt, vài người lại ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy ở chỗ cao hơn đỉnh đầu chúng tôi chừng hơn một trăm mét, trên sườn dốc tuyết phủ dần dần xuất hiện một vết nứt đen không hề bắt mắt nhưng lại khiến cho tim người ta lạc nhịp, đang từ từ toác ra, vô số vết nứt nhỏ dài lan rộng trên tầng tuyết. Theo sự lan tỏa của các vết nứt kia, những khối tuyết nhỏ lăn xuống đánh vào bốn phía xung quanh chúng tôi.

Tôi lập tức lạnh toát cả người, hiểu ngay đã xảy ra chuyện gì.

Xem ra danh tiếng “Pháo thần” của Lang Phong, đến hôm nay là hết linh rồi.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.