Chuyện Tình Vịnh Cedar 2: Ngày Mai Không Hẹn Trước

Chương 33




Tuy Hoàng đế đang ở Nam Uyển nhưng mỗi ngày đều phái người hồi cung thỉnh an Thái hoàng thái hậu và Thái hậu. Hôm nay, Triệu Hữu Trung lĩnh việc này. Hắn vừa đi thỉnh an ở Từ Ninh cung ra thì gặp Đoan Tần đến thỉnh an Thái hoàng thái hậu. Đoan Tần đi thẳng về phía trước không chớp mắt nhưng cung nữ tâm phúc Thê Hà đang đỡ nàng lại ra hiệu bằng ánh mắt với hắn.

Triệu Hữu Trung ngầm hiểu, không vội về Nam Uyển ngay mà đi thẳng tới Hàm Phúc cung rồi vào phòng bên hông. Hắn cùng bọn thái giám quây quanh chậu than khoác lác một lúc lâu mới thấy Đoan Tần hồi cung. Triệu Hữu Trung liền đi đến thỉnh an rồi theo Đoan Tần vào trong noãn các. Đoan Tần ngồi trên giường lò, nói: “Mời Triệu công công ngồi!”

Triệu Hữu Trung luôn miệng đáp: “Nô tài không dám!” Thê Hà đã mang chiếc ghế nhỏ lên, Triệu Hữu Trung tạ ơn rồi mới ngồi xuống chiếc ghế nhỏ.

Đoan Tần cầm tách trà, lấy chiếc nắp nhẹ phẩy qua lá trà, chậm rãi hỏi: “Hoàng thượng vẫn khỏe chứ?”

Triệu Hữu Trung vội đứng dậy, đáp: “Hoàng thượng vẫn khỏe.”

Đoan Tần thở dài một tiếng, nói: “Vậy thì tốt.”

Triệu Hữu Trung không đợi nàng ta hỏi đã nói nhỏ: “Chuyện Đoan chủ nhân dặn nô tài nghe ngóng, trước mắt nô tài cũng không có cách nào. Người bên cạnh Hoàng thượng, ai ai cũng như bị dán kín miệng cả rồi, chỉ sợ khiến Hoàng thượng biết được. Nghe nói đợt trước đến Lý Đức Toàn – Lý công công, Hoàng thượng cũng đã xử lý, là người khác thì không biết có kết cục thế nào.”

Đoan Tần nói: “Đã làm khó công công rồi.” Nói xong, nàng ta ra hiệu cho Thê Hà. Thê Hà liền đi lấy một tờ ngân phiếu đến.

Triệu Hữu Trung liếc mắt thấy thì mở miệng nói: “Nô tài không làm xong việc của Đoan chủ nhân, sao có thể nhận tiền thưởng của chủ nhân được?”

Đoan Tần cười nhẹ. “Con người ta, công công còn không hiểu sao? Chỉ cần công công có lòng thì coi như đã giúp ta rồi.”

Triệu Hữu Trung đành nhận lấy tờ ngân phiếu, nhét vào trong tay áo rồi nói: “Xin chủ nhân bớt buồn phiền, chuyến này về nô tài sẽ nghĩ cách.”

Hắn về đến Nam Uyển thì trời đã tối. Đi bàn giao công việc xong mới về phòng mình, mở ngăn tủ đầu giường lấy ra bình rượu trắng mà hắn giấu bên trong, rồi dùng một tấm vải bọc qua loa. Hắn kẹp bình rượu vào nách, đi tìm tên thái giám Vương Chi Phú của Nội Tấu sự.

Thời tiết mùa đông rét thấu xương. Vương Chi Phú đang ngồi rang lạc một mình trong phòng, vừa nhìn thấy Triệu Hữu Trung thì vô cùng thân thiết chào đón: “Huynh đệ, lần này lại mang cho ta thứ hay ho gì thế?”

Triệu Hữu Trung cười khẽ, quay người chốt cửa rồi mới lấy ra cái bọc hắn kẹp dưới nách. Vương Chi Phú nhìn hắn mở cái bọc ra, vừa thấy rượu đã thèm thuồng, nuốt nước miếng “ực” một cái. Hắn vội đem tới hai chiếc bát thô kệch, vừa rót rượu vừa kêu lên: “Thơm quá!”

Triệu Hữu Trung cười, nói: “Nói nhỏ thôi kẻo người bên ngoài nghe thấy. Rượu này chẳng dễ dàng gì mới có được, người khác mà biết, chỉ e hai chúng ta sẽ phải tới Thận hình ti một chuyến.”

Vương Chi Phú cười hì hì, mang cả số lạc đã bị cháy sém trên chậu than ra. Hai người ăn lạc nhắm rượu. Tuy không thể gây ra tiếng động lớn nhưng cũng được uống cho đỡ thèm. Khi bình rượu vơi đi hơn nửa, cả hai đều đỏ bừng mặt mũi, cũng bắt đầu nói nhiều hơn. Vương Chi Phú uốn đầu lưỡi, nói: “Không có công không thể hưởng lộc. Huynh có chuyện gì cần đến ta mà ta có thể giúp thì huynh cứ nói một tiếng là được. Ta nhận ân huệ của huynh cũng không phải mới ngày một ngày hai.”

Triệu Hữu Trung đáp: “Huynh là người thẳng thắn, ta cũng không vòng vo nữa. Huynh làm việc ở Nội Tấu sự, ngày nào cũng có thể gặp Hoàng thượng, ta có chuyện này muốn nhờ huynh nghe ngóng.”

Vương Chi Phú đã ngà ngà say, nói: “Mỗi ngày ta cũng chỉ là đem tấu sớ vào, dâng lên xong rồi lui xuống luôn. Hoàng thượng cũng chẳng liếc mắt nhìn ta lấy một cái. Dù có thể nhìn thấy Hoàng thượng thật đấy nhưng không được nói câu nào với người.”

Triệu Hữu Trung cười ha ha. “Ta cũng không nhờ huynh tấu lên Hoàng thượng chuyện gì.” Xong hắn ghé vào tai Vương Chi Phú thì thầm một hồi. Vương Chi Phú cười, nói: “Chuyện này còn phải xem có cơ hội hay không. Bây giờ, những người hầu hạ ngự tiền rất kín miệng, cũng chẳng dễ dàng gì. Nhưng huynh đã lên tiếng nhờ vả thì dù ta có phải lên núi đao hay xuống biển lửa cũng sẽ làm được việc huynh nhờ.”

Triệu Hữu Trung cười, đáp: “Vậy ta cũng xin tạ ơn ngay tại đây.”

Hai người uống hết cả bình rượu rồi mới thỏa mãn giải tán.

Tuy Vương Chi Phú đã vỗ ngực đồng ý nhưng mãi vẫn chưa có cơ hội. Vừa may hôm nay hắn trực ở Nội Tấu sự, trời rét đậm, thời tiết lạnh giá nên hắn nhắm mắt ngủ gà ngủ gật cạnh chậu than. Đã gần tới canh tư, bộ binh ở kinh thành phái người phi ngựa gấp mang tấu sớ “Sáu trăm dặm khẩn” của Phúc Kiến. Vương Chi Phú cũng chẳng dám chậm trễ vì việc chuyển tấu cũng có quy định riêng. Khẩn cấp nhất sẽ dùng cụm từ “Sáu trăm dặm khẩn”, mỗi ngày phi ngựa chạy sáu trăm dặm, ngoài việc tấu trình việc khuyết chức[1] của quan lớn đốc phủ thì loại tấu khẩn này chỉ dùng khi thành trì thất thủ hoặc chiếm được thành. Bản tấu “Sáu trăm dặm khẩn” này là do đề đốc thủy sư Phúc Kiến Vạn Chính Sắc phái người gửi gấp đến, bên ngoài có con dấu lớn màu tím, nhất định là tấu chương quân sự quan trọng về việc Trịnh thị Đài Loan, vì thế Vương Chi Phú vội rời khỏi phòng trực của Nội Tấu sự về hướng chính điện của hành cung Nam Uyển. Gió bắc đang thổi mạnh, rét đến mức răng hắn va vào nhau lập cập. Một tay cầm đèn lồng, một tay cầm cái tráp, cả hai tay hắn đã đông cứng từ lâu, không còn cảm giác. Trên trời không có trăng sao, chỉ là một mảng đen kịt. Nhìn từ xa thấy chính điện âm u, chỉ có ánh đèn le lói ở phòng trực bên hông tẩm điện.

[1] Chức vụ bị trống do người giữ chức đó từ chức hoặc qua đời.

Vương Chi Phú gọi thái giám trực đêm mở cửa thùy hoa rồi báo từng tầng vào trong. Vào trong tẩm điện, thái giám đứng đầu ca trực là Trương Tam Đức đích thân cầm đèn ra. Vương Chi Phú nói: “Trương công công, tấu sớ “Sáu trăm dặm khẩn” của Phúc Kiến e là phải trình lên ngay bây giờ mới được.”

Trương Tam Đức “ồ” một tiếng, buột miệng nói: “Ngươi chờ một chút, ta gọi cung nữ gác đêm đi mời Hoàng thượng.

Vương Chi Phú nghe thấy vậy thì ngẩn ra, bỗng cảm thấy khác thường. Theo lệ thì có thái giám đứng đầu ca trực ở bên trong tẩm điện, nếu còn có cung nữ gác đêm thì nhất định là có phi tần thị tẩm. Nhưng Hoàng đế đi Nam Uyển, phi tần lục cung đều ở lại trong cung. Trương Tam Đức cũng tự biết hắn lỡ lời nên thầm hối hận, hắn giơ tay khẽ đập lên cửa noãn các hai cái.

Rèm gấm được vén lên, hơi ấm phả vào mặt. Cung nữ gác đêm rón rén đi ra ngoài. Trương Tam Đức nói nhỏ: “Có tấu khẩn cần trình Hoàng thượng.” Cung nữ kia lại nhẹ nhàng đi vào tẩm điện, Vương Chi Phú nghe nàng gọi vài lần thì Hoàng đế mới tỉnh rồi truyền lệnh thắp đèn. Đúng lúc này lại nghe thấy một giọng nói dịu dàng, rất nhỏ của nữ tử ở xa xa bên trong điện. Chỉ nghe được tiếng đáp lại vô cùng ấm áp của Hoàng đế: “Không sao đâu, chắc là có tấu khẩn. Nàng không cần dậy.” Vương Chi Phú đứng ngoài nghe thấy rõ câu này thì không khỏi giật mình.

Hoàng đế chỉ mặc một chiếc áo lụa Giang Ninh đi ra khỏi noãn các. Tuy bên ngoài cũng có chậu than nhưng vẫn lạnh hơn trong noãn các rất nhiều. Hoàng đế bất giác khẽ run, Trương Tam Đức liền đi lấy chiếc áo choàng lông chồn đen rồi khoác lên người y. Cung nữ cầm đèn đến, y nương theo ánh đèn để đọc tấu sớ, trên mặt hiện lên một nụ cười. Lúc này, Vương Chi Phú mới khấu đầu rồi lui ra ngoài.

Hoàng đế quay lại noãn các, chân tay đã hơi lạnh nhưng có chăn ấm đệm êm nên chỉ một lát đã thấy ấm lại. Lâm Lang bị đánh thức, khó ngủ lại, nàng cũng không tiện xoay người, đành nhắm nghiền hai mắt. Thuở nhỏ, Hoàng đế được các ma ma và công công gọi dậy đến thư phòng vào đầu giờ Mão, đến khi đăng cơ, mỗi ngày đều thức giấc vào đầu giờ Mão rồi lên triều, lúc này y cũng chẳng ngủ được nữa. Nghe thấy tiếng nàng thở, y hỏi: “Nàng ngủ chưa?”

Lâm Lang nhắm mắt, đáp: “Ngủ rồi.” Xong lại không nhịn được phì cười một tiếng, mở mắt ra thấy Hoàng đế dang hai tay, nhẹ nhàng ôm nàng vào lòng. Nàng nằm bên ngực y, nghe tiếng trái tim đập ổn định. Mái tóc dài như ngọc đen sáng mượt xõa trên vạt áo y. Y cầm một lọn tóc lên, khẽ nói: “Vốn không vấn tóc, dài xõa qua vai. Lả lướt bên gối chàng, đáng yêu là đến thế.” Nàng không đáp lời, chỉ lấy một lọn tóc của mình, chầm chậm tết chung với bím tóc đuôi sam của Hoàng đế, tết cẩn thận thành nút thắt đồng tâm. Ở phía xa xa trong điện có thắp một cây nến, tỏa ra ánh sáng vàng mờ ảo, dập dềnh.

Hoàng đế nhìn động tác của nàng thì trong lòng rất vui mừng và xúc động. Tuy trời rét đậm nhưng trong lòng y lúc này giống như tháng Ba mùa xuân, cảnh vật đẹp đẽ vô ngần. Cầm lấy tay nàng đặt lên ngực, y chỉ nguyện thiên trường địa cửu, vĩnh viễn như ngày hôm nay, như lúc này. Bỗng hiểu ra lời thề thốt của người xưa, “trên trời nguyện làm chim liền cánh, dưới đất nguyện làm cây liền cành. Nguyện làm uyên ương, không ước thành tiên”, hóa ra đúng là vậy.

Những ngày cuối năm dần trôi qua, dù không muốn nhưng vẫn phải về kinh. Quan viên quần thần lục bộ nha môn cũng chẳng có việc gì khi năm hết tết đến, còn Hoàng đế thì lại bận bịu đủ loại lễ mừng, nào là đại lễ Nguyên thần, tế tổ tế trời… thực là rườm rà. Lại thêm thông lệ từ mấy năm gần đây, Hoàng đế sẽ đích thân viết chữ “Phúc” ban cho các cận thần. Hôm nay Hoàng đế vừa đi tế tổ tiên ở Thái miếu về, bỏ chút công sức viết được mấy chục chữ “Phúc”. Lâm Lang từ Ngự Trà phòng đến, thấy các thái giám mang ra hong cho khô mực, nàng đang chăm chú nhìn thì chợt nghe Trương Tam Đức gọi: “Thái hậu sai người tới, chỉ đích danh cô nương đến đó một chuyến.”

Nàng không biết có chuyện gì nhưng là Thái hậu truyền nên vội vã đi. Đi vào noãn các, Thái hậu đang dựa vào chiếc gối lớn trên giường lò. Người mặc một bộ áo gấm màu xanh dương có thêu hoa văn tròn chữ thọ. Một vị phu nhân mặc áo gấm dài màu nhạt thêu hoa và bươm bướm, đang nghiêng người chơi bài cùng Thái hậu. Tuy Lâm Lang không biết nàng ta nhưng nhìn trang phục và trang sức cũng có thể đoán được đây là Đông Quý phi. Nàng quỳ xuống, cung kính hành lễ. “Nô tỳ thỉnh an Thái hậu!” Dập đầu xong, nàng ngừng một lát rồi nói tiếp: “Nô tỳ thỉnh an Quý phi!” Lại dập đầu thêm lần nữa.

Thái hậu liếc nhìn nàng, hỏi: “Ngươi chính là Lâm Lang? Họ gì?” Cũng không cho nàng đứng lên, nên nàng cứ quỳ như vậy mà trả lời: “Bẩm Thái hậu, nô tỳ họ Vệ.”

Thái hậu chầm chậm đẩy một quân bài, nói: “Là Hán quân đây.”

Trong lòng có chút chua xót, nàng đáp: “Nô tỳ là nô bộc Hán quân ạ.”

Thái hậu không thể hiện gì trên mặt, lại liếc nàng lần nữa. “Mấy ngày nay ở Nam Uyển, Hoàng thượng làm gì khi rảnh rỗi?”

Lâm Lang đáp: “Bẩm Thái hậu, nô tỳ hầu hạ trà nước, chỉ biết Hoàng thượng có lúc thì viết chữ, có lúc ngồi đọc sách. Còn những chuyện khác nô tỳ không biết.”

Thái hậu cười lạnh lùng một tiếng. “Vậy Hoàng đế không ra ngoài cưỡi ngựa à?”

Lâm Lang biết có chuyện không ổn từ lâu, giờ thấy Thái hậu hỏi thẳng như vậy thì đành trả lời: “Thi thoảng Hoàng thượng cũng ra ngoài cưỡi ngựa đi dạo ạ!”

Thái hậu lại cười lạnh lùng, xoay mặt đi gẩy gẩy quân bài nhưng không lên tiếng nữa. Trong điện vốn yên tĩnh, chỉ nghe thấy tiếng quân bài thi thoảng đập vào nhau vang lên tiếng “cách”. Nàng quỳ ở đó rất lâu, tuy dưới đất cũng có lò sưởi ấm nhưng mặt đá đen rất cứng, quỳ đến lúc này, hai đầu gối nàng đã hơi tê. Đông Quý phi bắt đầu thấy khó xử, nàng vuốt quân bài rồi nói: “Thái hậu, thần thiếp lại thua rồi, đúng là không phải đối thủ của người, hôm nay tất cả số hạt vàng này lại muốn hiếu kính lão nhân gia tiếp. Thần thiếp không có tiền đồ, xin Thái hậu tha cho. Sau này thần thiếp luyện thêm vài lần rồi lại tới chơi với người.”

Thái hậu cười. “Nói nghe mà thương, ta chẳng muốn thắng nữa. Chúng ta chơi tiếp.”

Đông Quý phi chẳng làm gì khác được, chỉ liếc nhìn Lâm Lang một cái. Lâm Lang vẫn quỳ ở đó, bình thản và điềm tĩnh.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.