Chuyện Tình Vịnh Cedar 2: Ngày Mai Không Hẹn Trước

Chương 29




Lúc hoàng hôn, trời đổ tuyết lớn, rơi suốt đêm. Sáng hôm sau tỉnh giấc thì cửa sổ đã phủ màu trắng nhạt. Nhìn ra bên ngoài, những nóc nhà gần đó, cả đất trời xa xa đều được phủ tuyết. Khắp nơi là một mảng trắng xóa. A hoàn hầu hạ hắn súc miệng bằng nước muối rồi thay y phục. Đại a hoàn Hà Bảo cầm chiếc áo choàng lót bông màu xanh dương đến rồi nói: “Lão thái thái sai người tới gọi đại gia qua ăn sáng.” Nàng ta vừa nói vừa khẽ phất chiếc áo, choàng qua vai Dung Nhược. Dung Nhược hơi cau mày, nhìn ra ngoài, khung cảnh như được phủ một lớp tuyết trắng, còn có vô số bông tuyết đang lững lờ rơi xuống.

Dung Nhược qua gian nhà chính rồi đi thẳng đến thư phòng. Ở hành lang gặp Tây Tịch tiên sinh Cố Trinh Quán đang đứng ngắm tuyết, hắn nói: “Tuyết đẹp thế này mà có vài vị bằng hữu cùng nhâm nhi ly rượu thì thật thú vị.”

Cố Trinh Quán cười, đáp: “Ta cũng đang có ý này.”

Dung Nhược liền sai người chuẩn bị tiệc rượu rồi mời chư vị hảo hữu đến ngắm tuyết. Năm nay mở khoa Bác học hồng nho, chư vị Nghiêm Thằng Tôn, Từ Càn Học, Khương Thần Anh đều nhậm chức sử quan hàn lâm. Xưa nay họ vốn thân thiết với Dung Nhược nên lúc này ai nấy đều vui vẻ đến chỗ hẹn. Hảo hữu lâu ngày không gặp, tất nhiên sẽ nâng chén chúc nhau. Rượu quá tam tuần, Từ Càn Học mới nói: “Tiệc rượu hôm nay không gì vui hơn, chi bằng thi làm thơ, người thua phạt uống rượu.”

Mọi người cũng vỗ tay khen hay. Ngay lập tức đổ súc sắc, người đầu tiên là Cố Trinh Quán. Dung Nhược cười, nói: “Là Lương Phần[1] đầu tiên.”

[1] Cố Trinh Quán (1637 - 1741) tự Hoa Phong, hiệu Lương Phần.

Hắn đích thân cầm bình rượu, đổ đầy chén của Cố Trinh Quán. “Mời Lương Phần huynh uống hết chén này rồi buông lời vàng ngọc, cho đệ được mở mang tầm mắt.”

Cố Trinh Quán uống hết ly rượu, rồi trầm ngâm. Trong phòng, ngồi trên giường đất đã rất ấm rồi, lại còn thêm cái lò sưởi bên cạnh, nó được dát vàng, dát bạc cực kì hoa lệ, lúc này chỉ nghe thấy tiếng lách tách từ than đốt bên trong. Gã người hầu nhẹ nhàng dâng thức ăn lên, trong tầm mắt hắn là cái đệm thêu phù dung, chiếu gấm hoa, thật đúng là phú quý an nhàn. Dung Nhược đã sai người mang tới một cái bàn và chuẩn bị bút mực từ lâu. Khóe môi Cố Trinh Quán hơi run, bỗng nhiên đứng dậy, đi đến bàn vung bút một hồi.

Mọi người thấy vẻ mặt hắn khác thường, vội tới vây quanh xem hắn viết. Dung Nhược cầm tờ giấy, bất giác khẽ đọc thành tiếng, để điệu Kim lũ khúc: “Qúy tử[2] bình an chứ? Khi về lại, bình sinh vạn sự, đau thương khó lường. Nào có ai an ủi trên đường? Nhà túng con thơ mẹ đã già. Chẳng nhớ ai chúc rượu ngày đó. Ma quỷ ám người, quen thấy chúng gọi gió che mưa. Băng tuyết khắp chốn rơi đầy. Nước mắt lã chã áo bện đay, đoàn tụ nơi thiên nhai, mấy ai có được? Khổ một nỗi rét lạnh khó đương. Một lời hứa hai thập kỷ, quạ đen thành trắng ngựa mọc sừng, tất tương cứu. Tay áo hãy để thư này lưu.”

[2] Chỉ Ngô Thiệu Khiên (1631 - 1684), tự Hán Tra, hiệu Qúy tử.

Dung Nhược thấy ý thơ bi thương, bèn hỏi rõ sự tình. Cố Trinh Quán chỉ đợi Dung Nhược hỏi câu này, liền đáp: “Bằng hữu của ta là Ngô Hán Tra có tài hơn người. Năm đó, Mai Thôn nói rằng: ba người Ngô Hán Tra, Trần Kỳ Niên, Bành Cổ Tấn có thể xưng là “Tam phượng hoàng Giang Tả”. Vì Hán Tra bị liên lụy trong vụ án trường thi Nam Vi mà bị lưu đày tới Ninh Cổ Tháp. Phương Bắc lạnh giá, có lẽ lúc này Hán Tra đang phải đục băng mà ăn. Vậy mà Lương Phần lại đang uống rượu trong gian phòng ấm áp, cùng ngắm tuyết nhắm rượu với chu vị công tử bằng hữu. Nhớ đến Hán Tra, Lương Phần xấu hổ không nói nên lời.”

Dung Nhược xúc động cất cao giọng, nói: “Đô úy ly biệt, Sơn Dương nhớ bạn[3], thêm chuyện này là ba.” Việc này trong vòng ba ngàn sáu trăm ngày, đệ xin nhận là trách nhiệm của mình, huynh không phải nhắc lại.”

[3] Đô úy ly biệt: Thời Hán, Tô Vũ được cử đi sứ Hung Nô, Lý Lăng (từng giữ chức đô úy) đau lòng khi thấy bạn đi xa, có viết: “Người đã đi nơi đất khách, chia ly khó có thể gặp lại.” Sơn Dương nhớ bạn: Hương Tú ở tỉnh Sơn Dương nghe người hàng xóm thổi sáo, tiếng sáo bi thương đầy nỗi oán hận khiến hắn nhớ lại những bằng hữu đã qua đời.

Cố Trinh Quán không nén được vui mừng. “Lời công tử ngàn vàng, Lương Phần hoàn toàn tin tưởng, đại ân này không thể cảm tạ bằng lời. Đời người thì dài được bao nhiêu, xin công tử lấy hạn là năm năm.”

Dung Nhược không đáp, chỉ trầm ngâm, đặt tờ giấy xuống án rồi viết. Hắn vừa viết, Khương Thần Anh đứng cạnh đọc to từng câu cho mọi người cùng nghe, không ngờ cũng theo điệu Kim lũ khúc. Đến khi Khương Thần Anh đọc cậu: “Cứu được Ngô Qúy Tử trở về, từ hiện tại, không phải việc ngoài thân”, mọi người đều cảm thấy xúc động. Dung Nhược viết tiếp câu cuối cùng: “Người hiểu ta có Lương Phần huynh đây.”

Cố Trinh Quán vui mừng rơi nước mắt, nắm lấy tay Dung Nhược, nói: “Lương Phần có được người bằng hữu như công tử thì không cầu gì hơn.”

Từ ngày đó, Dung Nhược cố gắng hết sức tìm cơ hội đi giải tội cho Ngô Triệu Khiên, chỉ tiếc là không biết bắt đầu từ đâu. Trong lòng hắn không vui, ngày nào cũng ở trong phòng, lặng lẽ đối diện với quyển sách. Vì mấy ngày gần đây trời đổ tuyết lớn, Hà Bảo dẫn các tiểu a hoàn đi lấy tuyết sạch, đổ vào cái hũ, đậy lại rồi gọi người hầu chôn xuống gốc cây mai. Đúng lúc này thì ngoài cổng có thiệp đưa tới, nàng đích thân ra nhận, đem vào phòng bẩm với Dung Nhược: “Đại gia, phủ Dụ thân vương sai người đưa thiệp tới.”

Dung Nhược cầm đọc, thì ra là thiệp mời hắn đến vương phủ uống rượu, ngắm tuyết. Lúc đầu hắn không muốn đi, tâm tư chỉ nghĩ tới chuyện cứu Ngô Triệu Khiên, bỗng hắn nảy ra một ý, hắn biết vị Hòa Thạc thân vương[4] kia rất có tiếng nói trước mặt Hoàng đế, vậy sao mình không nghĩ cách thông qua Phúc Toàn?

[4]Thường được gọi tắt là “thân vương”, là tước hiệu chỉ được ban cho hậu duệ nam trực hệ của Hoàng đế.

Do gần đây, Dung Nhược với Phúc Toàn qua lại dần thưa, mấy lần yến tiệc hắn đều từ chối không đi, vì vậy Hà Bảo đoán hôm nay cũng sẽ không đi. Không ngờ Dung Nhược nói: “Đem áo choàng tới đây!” Nàng vội hầu hạ hắn mặc áo, tiễn hắn ra cổng.

Phủ Dụ thân vương được xây dựng từ năm Khang Hy thứ sáu. Phủ của thân vương đương nhiên cực kỳ tráng lệ, nguy nga lộng lẫy. Dụ thân vương Phúc Toàn mở tiệc rượu ngắm tuyết ở hoa viên sau phủ. Dãy giả sơn quanh co, mái vòm uốn lượn của hành lang thấp thoáng sau nó. Hồ nước đã đóng một lớp băng mỏng trong suốt, như một chiếc gương phẳng lì. Ven hồ cuối dãy giả sơn có một nhà khách nho nhỏ. Bên ngoài tòa nhà có trồng mười mấy gốc hàn mai, chưa đến mùa, hoa mai chưa đơm bông nhưng chỉ hơn tháng nữa là hương mai sẽ ngào ngạt. Đi vào trong sảnh, có đặt sẵn giường lò, hơi ấm tỏa ra chung quanh. Đang ngồi đều là các vị có chức tước cao trong triều, Dung Nhược đi vào thì tiếng chào hỏi hàn huyên tới tấp.

Phúc Toàn lại giơ tay vỗ nhẹ một tiếng, mấy tiểu a hoàn áo xanh đứng bên cửa sổ cực kỳ nhanh nhẹn, đồng loạt giơ tay kéo cánh cửa sổ vào bên trong. Bốn mặt của tòa nhà đều là cửa sổ dài, mọi người khẽ rùng mình. Chẳng ngờ không có cơn gió lạnh nào thổi vào cả, nhìn kĩ lại, hóa ra bên ngoài cửa sổ đều được gắn lớp thủy tinh trong suốt của phương Tây. Cảnh tuyết rơi ngập tràn bốn phía, còn người ở trong phòng vẫn thấy ấm áp như tiết xuân.

Thủy tinh trong suốt của phương Tây kia, một thước vuông vắn cũng đã có giá đắt đỏ, thủy tinh cao hơn trượng như thế, thậm chí còn là mấy chục tấm, chưa ai từng thấy. Quan lại, nhà phú quý bình thường cũng dùng thủy tinh, nhưng đa phần không quá một thước. Tấm thủy tinh lớn ngàn vàng khó tìm như vậy, e rằng chỉ có hậu duệ của thiên hoàng mới xa xỉ đến thế. Giữa bữa tiệc có người không kìm được khen: “Vương gia, thế này mới gọi là ngắm tuyết chứ!”

Phúc Toàn cười, đáp: “Uống rượu, ngắm tuyết bên cửa sổ thủy tinh là một thú vui của cuộc đời.” Vừa quay mặt sang liền thấy Dung Nhược. “Hôm kia gặp Hoàng thượng, Hoàng thượng còn nhắc muốn đi Nam Uyển ngắm tuyết. Tiếc là mấy ngày gần đây việc triều chính bận rộn, phải chờ tình hình chiến sự ở Tứ Xuyên ổn định, đại giá mới có thể rời kinh.”

Dung Nhược vốn là ngự tiền thị vệ, nghe Phúc Toàn nói vậy, hắn đáp: “Phải nhanh chóng chuẩn bị chuyện hộ tống mới được.”

Phúc Toàn cười cười. “Hoàng thượng mới cất nhắc nhạc phụ tương lai của ngươi là Pha Nhĩ Bồn lên làm lĩnh thị vệ nội đại thần, việc hộ tống lần này chắc là nhiệm vụ đầu tiên của ông ấy sau khi nhậm chức.” Chén rượu trong tay Dung Nhược khẽ run, sánh mất vài giọt. Phúc Toàn lại cực kỳ đắc ý với chuyện này, nói: “Hoàng thượng vẫn nhớ chuyện của ngươi, đã hỏi ta mấy lần. Cuối năm nạp thái thì sang năm mới nạp tệ được, vài tháng nữa là có thể tổ chức việc hỷ rồi.”

Chư vị trong gian phòng đều nói: “Cung hỷ Nạp Lan đại nhân!” Ai lấy đều nâng chén lên.

Trong lòng Dung Nhược đau đớn không nói nên lời, đành gắng gượng nở nụ cười. Một ly rượu nuốt xuống, cổ họng vừa cay vừa đắng, hắn không kìm được khẽ ho. Chợt nghe có người nói: “Dưới cảnh sắc thế này, tất nhiên là phải làm thơ.” Mọi người đều tán thành. Dung Nhược nghe bọn họ ngâm nga, có bài nổi tiếng nhớ về người xưa, cũng có người tự đọc bài thơ mình mới viết. Một mình hắn ngồi đó, chậm rãi uống ly rượu. A hoàn đứng bên cạnh vội rót thêm rượu vào chén của hắn, hết chén này tới chén khác, bất giác hắn đã thấy hơi say, mặt mũi ửng hồng.

Mọi người ồn ã bình thơ. Về lĩnh vực này, Phúc Toàn không am hiểu lắm, hắn quay sang thấy Dung Nhược liền nói: “Các vị đừng ồn ào nữa, Dung Nhược còn chưa lên tiếng, để xem hắn có câu thơ nào hay không!”

Dung Nhược đã ngà ngà say, lấy đôi đũa gõ gõ vào chiếc chén, lớn tiếng ngâm: “Bông tuyết bay xa khắp bốn bề, tầng băng đọng lại chỗ tuyết rơi. Trước gió liễu lộ thân gầy yếu, tình ta còn đó mãi không phai. Đung đưa lá rụng đầy mặt đất, xoay người nhớ lại làn mi kia. Làn váy thướt tha trong mộng ngắn, gió tây gắng thổi chẳng vơi sầu.”

Tiếng khen hay vang lên rộn rã. Giữa lúc hoan hô ca ngợi bỗng nghe có người cười nói bên ngoài: “Xoay người nhớ lại làn mi kia, thật là hay!” Giọng nói trong trẻo mà âm vang. Mọi người nghe thấy liền giật mình, trong nháy mắt cả gian phòng yên tĩnh hẳn, tới mức nghe rõ cả tiếng gió tuyết bên ngoài.

Cửa mở ra, tiếng giày lộp cộp nhưng bước chân lại rất nhẹ nhàng, có thái giám cận kề vây quanh. Người nọ chỉ mặc một chiếc áo dài lót bằng da cáo, khoác trên vai chiếc áo choàng lông cáo đen. Một khuôn mặt tuấn tú nổi bật trên cổ áo lông chồn đen, khóe môi vươn nét cười. Tuy Phúc Toàn cũng hơi say nhưng lúc này đã sợ đến tỉnh hơn nửa, trong lúc hoang mang vẫn không quên lễ nghi, hắn hành đại lễ tiếp giá. “Hoàng thượng giá lâm, thần không đón tiếp từ xa, xin Hoàng thượng phạt thần tội bất kính!”

Vẻ mặt Hoàng đế có chút thảnh thơi, y tự tay đỡ hắn dậy. “Vì trẫm thấy tuyết rơi nhiều, nhớ trận tuyết lớn năm ngoái, phủ Thuận Thiên từng báo có nhà bị tuyết phủ nặng quá mà sập, dẫn tới thương vong. Buổi trưa nhàn rỗi trẫm liền xuất cung xem sao, trên đường đi ngang qua phủ khanh thì tiện ghé vào thăm. Là trẫm không cho bọn họ đến báo. Trời đổ tuyết lớn, các khanh cũng thật biết cách hưởng thụ.”

Phúc Toàn lại tạ ơn rồi mới đứng lên, cười đáp: “Lúc nào Hoàng thượng cũng lo lắng cho muôn dân, thần đã không chia sẻ nỗi lo với Hoàng thượng mà còn trốn ở đây uống rượu, đúng là vô cùng hổ thẹn!”

Hoàng đế nói: “Trộm đi tận hưởng nửa ngày đời, thời tiết như thế này vốn dĩ nên trốn ở một chỗ uống rượu, chỗ này của khanh thật ấm áp.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.