Bạch Liên Và Trà Xanh

Chương 17: Bên ngoài trường bắn (trung)




Bên trong phủ trong tòa thành nho nhỏ, Phong thái hậu bế tân đế ngồi trên giường, nhìn thấy Phong Quân Dương vận quân trang đi vào cùng Hứa Cẩn, đôi mắt đỏ hoe, hờ hững hỏi: “A Sách, có thể cho mẹ con chúng ta một con đường sống không?”.

Phong Quân Dương nghe vậy bất giác xúc động, im lặng một lát, đáp: “Đại tỷ, nếu tỷ muốn làm thái hậu, A Sách sẽ toàn lực phò tá Hạnh Nhi. Nếu tỷ không muốn làm thái hậu thì hãy làm trưởng công chúa, sau này lại chọn một người đàn ông tốt để gả. Còn Hạnh Nhi, A Sách sẽ bảo vệ nó cả đời bình an”.

Phong thái hậu cuối cùng không cầm nổi nước mắt, khôn mặt cũng lộ nụ cười vui mừng, nói: “Có mấy câu này của A Sách, đại tỷ không còn hối hận việc gả chồng nơi xa Thịnh Đô ngày đó”.

Phong Quân Dương dặn dò Hứa Cẩn lui xuống xử lí việc trong quân, mình thì tiến lên vài bước ngồi xuống cạnh giường, cúi đầu nhìn đứa bé quấn trong tã, khóe miệng cong lên thành nụ cười ôn hòa: “Đại tỷ, tướng mạo thằng bé thật giống người của Phong gia”.

“Thật ra có vài phần giống đệ khi còn nhỏ đấy. Ta còn nhớ dáng vẻ đệ khi vừa mới chào đời, mặt mũi cũng như thế này, chỉ là khỏe mạnh hơn Hạnh Nhi nhiều.” Phong thái hậu mỉm cười, lấy tay nhẹ nhàng ra dấu một cái, lại nói: “Lớn chừng này nè, mẫu thân sinh đệ vất vả lắm, rất nhiều ngày sau vẫn không xuống được giường. Khi đó ta cùng lắm mới năm sáu tuổi, trong lòng vừa vui vừa sợ, không dám đi quấy rầy mẫu thân nên cả ngày ở lì bên đệ”.

Phong Quân Dương mỉm cười lắng nghe, một lát sau, đột nhiên nhẹ nhàng nói: “Đại tỷ, mẫu thân và tiểu muội đều rất nhớ tỷ, chờ chiến sự kết thúc, tỷ về thăm hai người đi”.

Lệ trong mắt Phong thái hậu tức khắc lại dâng đầy, Phong Quân Dương không khỏi có phần luống cuống, vội lấy khăn ra đưa cho nàng: “Đại tỷ, tỷ đừng khóc nữa, người ta nói phụ nữ khi ở cữ mà rơi nước mắt thì không tốt”.

Phong thái hậu lấy khăn chấm nước mắt, một lúc sau mới bình tĩnh lại, trách móc đệ đệ: “Còn không phải tại đệ làm đại tỷ khóc”.

Phong Quân Dương chỉ mỉm cười, lại ló đầu ngó đứa bé con, nhìn một lát, đột nhiên hỏi: “Nó và đệ ngày xưa giống nhau lắm sao?”.

“Ừ.” Phong hậu gật đầu, khuôn dung dịu dàng, “Giống đến sáu bảy phần, người ta bảo cháu ngoại giống cậu, đúng là thế thật”.

Đầu óc Phong Quân Dương lại chợt nghĩ đến Hạ Trạch, bất giác khẽ cau mày, nói: “Vậy chứ chẳng phải sau này con đệ sẽ giống tên Hạ Thập Nhị kia?”.

Phong thái hậu không khỏi bật cười, nói: “Vậy cũng chẳng còn cách nào khác, ai bảo gã là anh trai của Vân Sinh chứ. Có điều cũng may chỉ là đường huynh(*), có lẽ sẽ lệch đi vài phần, không giống vậy đâu”.

(*) Anh họ bên nội

Phong Quân Dương nghe vậy sững sờ, lập tức mỉm cười, nhỏ giọng nói: “Tính tình nàng như vậy, bướng bỉnh hung hăng, va vào tường cũng không chịu quay đầu lại, phải va thủng tường kia mới thôi. Con của nàng chỉ có thể giống nàng, sẽ không giống người khác chút nào”.

Phong thái hậu chỉ cho là chàng đang nói đến Vân Sinh, sẵng giọng: “Nói năng huyên thuyên, Vân Sinh hiền thục, sao có thể giống như đệ nói? Cẩn thận câu này để cô nghe thấy, cô sẽ không tha cho đâu”.

Phong Quân Dương chỉ cười nhàn nhạt, không hề phản bác.

Hai chị em nói chuyện ngẫu thêm vài câu nữa, Phong thái hậu bèn kêu nhũ mẫu bế đứa bé xuống bón sữa, nghiêm túc hỏi Phong Quân Dương: “A Sách, giờ đệ tính thế nào?”.

Phong Quân Dương đáp: “Mấy vương gia vẫn đang đấu đá ở Thịnh Đô, đánh đến khi một sống một chết, đệ đã chặt đứt tất cả đường lui của họ rồi, chỉ còn chờ họ sa vào lưới thôi. Tỷ và Hạnh Nhi cứ ở đây trước, chờ đệ đoạt được Thịnh Đô, lại đến đón hai người về triều”.

Phong thái hậu chậm rãi gật đầu, lại hỏi: “Còn Giang Bắc? Tình hình sao rồi?.

“Lúc đệ đến vẫn đang giằng co rất găng, Hạ Trăn khó khăn lắm mới hạ được Dự Châu, sao có thể trả cho Trương gia được. Thanh Châu tấn công mãi không xong, Vũ An lại đang nằm trong tay Hạ Thập Nhị, Trương Hoài Mân không dám ở ngoài lâu, có ý muốn về Tĩnh Dương, nhưng rồi lại có vẻ như không cam lòng.” Phong Quân Dương đáp, dừng lại một lát rồi nói tiếp, “Tiên Thị dời đô Thượng Kinh, lại liên tục tăng binh về phía Nam, ý đồ xuôi Nam đã rõ rành rành. Ba nhà kia đều có tâm tư mà chẳng biết đại nạn sắp giáng xuống”.

Phong thái hậu cân nhắc một lát, lại nói: “A Sách, cho dù đệ bình định Giang Nam rồi cũng không thể xưng vương trước, phải dùng danh nghĩa họ Tề để đoạt Giang Bắc đã, mới có thể tiến hành việc nhường ngôi”.

Phong Quân Dương ngước mắt nhìn đại tỷ, vẫn không đáp lời.

Phong thái hậu nhìn chàng chăm chăm, nói từng câu từng chữ: “Không xưng vương, thì sẽ không trở thành mục tiêu công kích, đoạt Giang Bắc càng dễ hơn”.

Phong Quân Dương nghĩ ngợi, nhẹ nhàng mỉm cười, đáp: “Đệ nghe đại tỷ”.

Tin tức hai chị em họ hợp mưu cướp lấy Giang Nam lọt tới tai Hạ Trạch ở Vũ An đã là khi đầu thu. Hạ Trạch nghe nói Vân Tây vương đoạt lại Thịnh Đô đón Phong thái hậu và tân đế về triều, phong quan làm đại tướng quân thì không khỏi bật cười, nói với tay phụ tá: “Ta còn tưởng Phong Quân Dương sẽ đoạt vị đăng cơ, không ngờ chỉ làm đại tướng quân. Hai chị em họ Phong này thú vị thật, không biết là ai đang tính kế ai đây”.

Tay phụ tá này rất được Hạ Trạch tín nhiệm, nói năng cũng thoải mái, suy nghĩ một lát, lại nói: “Vân Tây vương này tâm cơ thâm trầm, giỏi về mưu tính, không phải là vật trong ao”

Hạ Trạch vụt tắt nụ cười, im lặng hồi lâu, đột nhiên hỏi tay phụ tá: “Ngươi nói trước đó hắn đến đỉnh Hổ Khẩu thật sự chỉ vì muốn gặp mặt Tạ Thần Niên, an ủi nỗi khổ tương tư?”. Tay phụ tá còn chưa trả lời, gã đã chậm rãi lắc đầu, “Không đâu, Phong Quân Dương không phải người như thế. Vì Tạ Thần Niên, hắn ta phát điên hai lần, chuyện có lần một lần hai, chứ không thể có lần ba được”.

Phụ tá do dự nói: “Đỉnh Hổ Khẩu đổi tên Tụ Nghĩa trại, trước mắt số lượng dân lưu lạc họ thu nhận đã hơn một vạn, thanh thế ngày càng mở rộng, không chỉ được các thế lực khắp Bắc Thái Hành quy thuận mà đến cả Nam Thái Hành cũng có nhiều kẻ đến cậy nhờ, chờ thêm một thời gian nữa, sợ là sẽ làm nên trò trống gì đó. Theo tiểu nhân thấy, nếu đã không thể dung nạp cho mình dùng, chi bằng thừa dịp nó chưa sinh trưởng, loại bỏ trước. Bằng không một khi nó mở rộng thế lực đến Nam Thái Hành, thì sẽ uy hiếp cả Nghi Bình”.

“Tụ Nghĩa, Tụ Nghĩa”, Hạ Trạch khẽ bật cười, nói, “Một đám sơn tặc nạn dân tụ lại với nhau mà cũng dám xưng là Tụ Nghĩa, đúng là trò cười! Có điều, bản thân ta quả thật đã coi thường Tạ Thần Niên, không thể ngờ cô ta lại có bản lĩnh đến vậy, chỉ trong một thời gian ngắn mà uy danh đã sắp vượt qua Thanh Phong trại ngày xưa”.

Phụ tá nói: “Cũng là vừa may, trước kia nạn dân hai châu Thanh, Tương bùng phát dịch bệnh, đỉnh Hổ Khẩu ra mặt bố thí thuốc men, cứu sống vô số người, được lòng rất nhiều người”.

“Tiền mua thuốc của cô ta là đoạt trong tay ta, ta còn chưa tìm cô ta tính sổ mà cô ta dám dùng để mua chuộc lòng người.” Hạ Trạch lạnh lùng cười, lại nói, “Cũng không biết Tạ Thần Niên có tính toán gì không, chẳng lẽ chỉ một con đàn bà bé mọn, dựa vào một cái sơn trại mà cũng muốn tranh giành thiên hạ ư?”.

Vấn đề này, tay phụ tá cũng không trả lời được, phân vân một lát mới lên tiếng: “Nếu đã mua chuộc dân lưu lạc, hẳn là cũng có chút dã tâm”.

Lời này quả tình vu oan cho Thần Niên, nàng thấy số nạn dân đến nhờ mỗi ngày, chỉ cảm thấy nhức đầu chứ chẳng hề có chút vui mừng nào. Có điều, nàng lo một, trong trại còn có người lo hơn nàng mười, chính là Ôn Đại Nha trông coi lương thảo vẠtư. Trong mắt hắn, những nạn dân kia chẳng khác nào những cái miệng đang há ngoác ra gào khóc đòi ăn.

Một ngày hôm nay lại có thêm hơn trăm người mộ danh mà đến nhờ vả, Ôn Đại Nha sắp xếp ổn thỏa cho họ, kiếm chút cháo ăn trước rồi một mình ra sau trại tìm Thần Niên. Thần Niên đang ngồi thiền trên vách núi, Ôn Đại Nha yên lặng ở phía xa chờ đến khi trời đổ bóng chiều mới tiến đến ngồi xổm bên cạnh Thần Niên, cúi đầu một lúc lâu, nói: “Đại đương gia, không thể tiếp nhận những người này nữa, nếu còn nhận, chúng ta không thể nuôi nổi”.

Thần Niên quay sang nhìn hắn, cười khổ hỏi: “Không nhận thì biết làm sao giờ? Ký Châu không nhận, chúng ta cũng không nhận, trấn quân các nhà lại chỉ chịu nhận những trai tráng lao động có thể sử dụng, ai mà cần đàn bà phụ nữ người già trẻ con chỉ biết ăn uống đây? Không ai cần cả, mở mắt nhìn họ chết sao?”.

Ôn Đại Nha là một người mềm lòng, nếu không lúc ở Ngưu Đầu trại trước kia cũng không đón nhận giúp đỡ huynh muội Thôi Tập, tất nhiên hắn cũng không thể trơ mắt nhìn những người dân lưu lạc kia chết đói dưới chân núi, lo đến mức cào đầu, nói: “Nhưng lương thực không đủ nữa, lương thực Giang Nam đi mua mãi không về, chỗ chúng ta vốn cũng nổi tiếng là nghèo, làm sao nuôi nổi ngần đó người ăn không ngồi rồi”.

Thần Niên mím môi không nói gì, nhìn xuống chân núi thất thần thật lâu, rồi chợt lên tiếng: “Lương thực không đủ thì đi tính, đi giành, đi đoạt, dù sao cũng phải nghĩ cách để mọi người sống được”.

Nàng đứng dậy rời khỏi vách núi, trở về trại tìm Thôi Tập, đi thẳng vào vấn đề: “Binh lính cậu huấn luyện ở trại ngoài đã sử dụng được chưa?”.

Trong tay Thôi Tập đã có hơn hai nghìn binh trại ngoài, đều là những thanh niên trai tráng lựa từ trong số nạn dân ra, dựa theo định chế trong quân mà chia ra làm bốn doanh, ngày mùa thì làm ruộng, nông nhàn thì huấn luyện, hiện giờ đã có lớp có lang rồi. Thôi Tập không biết vì sao Thần Niên lại bất ngờ hỏi việc này, cân nhắc một phen, đáp: “Miễn cưỡng có thể dùng một chút”.

Thần Niên bèn nói: “Vậy là vừa tốt, cho ta mượn dùng một chút”.

Thôi Tập đưa mắt nhìn nàng, hỏi: “Cô muốn làm gì?”.

Thần Niên lại không đáp, xoay người tim bản đồ mấy châu Giang Bắc của Thôi Tập trên tủ, mở ra trên bàn rồi nhìn kỹ. Tim Thôi Tập đập có phần nhanh hơn, cúi người xuống, dùng ngón tay vạch từ đỉnh Hổ Khẩu đến Ký Châu, trầm giọng nói: “Nếu cô muốn tìm một nơi để khởi sự, Ký Châu là tốt nhất”.

Thần Niên nhìn một lát, lại lắc đầu khe khẽ, điểm điểm tay vào Nghi Bình ở phía Nam núi Thái Hành, nói: “Nơi này mới tốt nhất”.

Thôi Tập không hiểu: “Nghi Bình? Nghi Bình của Hạ gia?”.

Thần Niên trầm ngâm không nói, chỉ nhìn tấm bản đồ mà thất thần. Thôi Tập nghĩ nàng đang cân nhắc sự việc, không dám quấy rầy. Chừng qua thời gian uống cạn một tuần trà, Thần Niên mới ngẩng đầu lên nhìn cậu, hỏi: “Cậu vừa mới nói gì?”.

Thôi Tập nói: “Vì sao không đoạt Ký Châu, ngược lại lại muốn đoạt Nghi Bình cô lập với bên ngoài?”.

Thần Niên cười, hỏi lại câu: “Hiện giờ cậu giành được Ký Châu sao?”.

Ký Châu thành cao hào sâu, dễ thủ khó công, nhớ ngày đó mấy vạn đại quân của Tiết Thịnh Anh cũng không đoạt được tòa thành này trong tay huynh đệ nhà mình, chỉ bằng đám trại binh Thôi Tập thu gom lại trong số dân lưu lạc, trừ khi Tiết Thịnh Hiển bị hỏng não, chịu mở to cổng thành đón bọn họ vào, bằng không, công thành chính là lấy trứng chọi đá.

Thôi Tập tất nhiên cũng hiểu được điều đó, trầm mặc hồi lâu, nói: “Hiện giờ thời cơ chưa tới, chờ thêm đã, chờ đến khi nhân mã của chúng ta nhiều hơn, chờ dân lưu lạc dồn về Ký Châu nhiều hơn nữa, đến lúc đó có tâm tính kế, chưa chắc đã không thể nên việc”.

Thần Niên lắc đầu: “Như vậy thương vong cũng chủ yếu là người dân lưu lạc, không làm suy chuyển được cái gốc của Tiết Thịnh Hiển”.

“Nhưng Nghi Bình cũng khó đoạt vậy thôi, hơn nữa, đoạt nhằm dụng ý gì?” Thôi Tập hỏi.

“Có lợi, còn là lợi lớn.” Thần Niên lấy tay chỉ vào bản đồ. “Cậu xem, đoạt được Nghi Bình chẳng khác nào đã thông con đường đi Giang Nam của chúng ta. Loạn lạc đều ở phía Tây dãy Thái Hành, dân chúng chủ yếu trốn về phía Đông, nếu Ký Châu không chịu thu nhận, đến lúc đó chúng ta sẽ dẫn nạn dân hướng sang Giang Nam”.

Thôi Tập nghe vậy khẽ cau mày, nhưng rồi giãn ra rất nhanh, nói: “Giang Nam cũng đang loạn lạc. Phong Quân Dương tuy đã giành lại Thịnh Đô, nhưng thế lực tàn dư của các phiên vương vẫn còn đó, vẫn không yên ổn”.

Bản đồ kia chỉ vẽ mấy châu Thanh, Ký, Tương, Lỗ chứ chưa vẽ đến Giang Nam, tầm mắt Thần Niên lại từ núi Thái Hành đi xuống, nhìn thấy chỗ đất trống phía bờ Nam sông Uyển, im lặng một lát, nói: “Phong Quân Dương có thể định Giang Nam rất nhanh, người đó có dã tâm chứ tuyệt không thiển cận như Tiết Thịnh Hiển, vì mưu đồ bình ổn nhất thời mà cự tuyệt dân lưu lạc ở bên ngoài. Cho dù chỉ để lấy lòng người trong thiên hạ, Phong Quân Dương cũng sẽ thu nhận nạn dân, bố trí thích đáng. Mà Giang Nam vốn là nơi trù phú, mặc dù từng trải qua loạn lạc song không tổn thương gốc rễ, không khó nuôi sống số dân lưu lạc này”.

Thôi Tập có phần bất ngờ, nhìn lại Thần Niên, muốn nói lại thôi.

Thần Niên nói: “Có chuyện gì cứ nói thẳng, với giao tình của chúng ta, không nên có gì đó không nói nên lời”. 

Hai người họ quen biết đã gần hai năm, mặc dù không coi là tri kỷ nhưng cũng là bạn sinh tử. Thôi Tập nghĩ ngợi, đoạn hỏi: “Cô thật sự muốn theo Phong Quân Dương?”.

Thần Niên bất giác nhướng mày: “Sao lại nói thế?”.

Thôi Tập đáp: “Tuy dân lưu lạc tạm thời là gánh nặng, nhưng nếu sử dụng một cách thích đáng sẽ là một thanh kiếm sắc để tranh thiên hạ. Tiết Thịnh Hiển là đồ ngu nên mới từ chối dân chúng ở ngoài cửa, mà cô lại đưa họ đến Giang Nam, chẳng phải là đang khuếch trương thanh thế Phong Quân Dương, giúp hắn đoạt lấy thiên hạ ư?”.

Thần Niên nghe thế mỉm cười, đáp: “Ta không quan tâm ai đoạt thiên hạ, ta chỉ muốn tất cả dân chúng có thể sống sót, có thể có một nơi để trải qua những năm tháng thái bình. Nếu Phong Quân Dương có thể, cho dù giúp hắn cũng không sao cả”.

Thôi Tập quả thật không sao hiểu nổi suy nghĩ của Thần Niên, chỉ im lặng nhìn nàng, trong mắt ngập tràn ý khó hiểu.

Thần Niên nhận ra sự ngờ vực của cậu, giải thích: “Bọn họ tranh thiên hạ của bọn họ, ta sống cuộc đời của ta, không mong kết quả, dốc sức mà thôi”.

Thôi Tập chần chờ một chút, đoạn nói: “Nhưng người trong thiên hạ sẽ hiểu nhầm. Nếu sau này cô có thể gả cho hắn thì đây đương nhiên là một giai thoại, nhưng nếu không thể, lại bị người khác chê cười là se duyên cho người khác”.

“Chê cười thì cứ chê cười đi”. Thần thái Thần Niên thoải mái, hoàn toàn không để ý, nói: “Tim ta trong ngực ta, chỉ mình ta hiểu rõ nhất. Người khác muốn nói gì thì tùy, ta tự đi con đường của ta. Sau khi chết, cùng lắm ta cũng chỉ là một nắm xương khô, còn quan tâm để lại thanh danh cho hậu thế làm gì”.

Thôi Tập không khuyên giải được Thần Niên liền bỏ cuộc, lãnh đạm cười nói: “Nếu cô đã không để ý, tôi cũng chẳng còn gì để nói. Nhưng hiện tại muốn đoạt Nghi Bình cũng khó khăn lắm. Mặc dù Hạ Trạch dẫn quân ra bên ngoài đối đầu với Trương Hoài Mân, song trong thành Nghi Bình đã có đại tướng Trần Tiêu trấn thủ, lấy mấy ngàn người này của chúng ta thì không tấn công nổi”.

Thần Niên lại cười nói: “Bài binh bố trận, ta không bằng cậu, nhưng luận về tính kế, cậu lại không bằng ta. Hiện tại chúng ta không tấn công nổi Nghi Bình đơn giản chỉ là không đủ binh lực, mà sở dĩ binh lực không đủ chẳng qua là vì thiếu vật tư lương thảo mà nuôi quân cần đến, vậy chúng ta hãy bàn kế kĩ càng, xem xem có thể từ đâu mà quên đi mấy thứ này”.

“Từ đâu?” Thôi Tập không khỏi hỏi lại.

“Từ đây, Tiết Thịnh Hiển của Ký Châu!” Thần Niên dùng ngón tay điểm lên vòng tròn đại diện cho Ký Châu trên bản đồ, ngước mắt nhìn Thôi Tập, hỏi: “Cậu nói hắn là loại người gì?”.

Thôi Tập đáp: “Trầm ổn có thừa, tiến thủ không đủ. Tôi thấy y cũng không có dã tâm tranh thiên ha, cùng lắm chỉ muốn bảo vệ Ký Châu sống yên ổn qua ngày”.

Thần Niên lại hỏi: “Một khi đã vậy, cậu đã từng ước đoán tâm tư của y chưa?”.

“Tâm tư gì cơ?” Thôi Tập kinh ngạc.

Thần Niên không đáp, nhưng lại hỏi: “Ta hỏi cậu trước, hiện giờ mấy kẻ Trương Hoài Mân, Hạ Trạch và Tiết Thịnh Anh đang làm gì? Đánh thành cục diện gì rồi?”.

Thôi Tập luôn rất chú ý đến việc này, nghe vậy đưa tay khoa vòng hai châu Thanh Tương trên bản đồ lại, đáp: “Hạ Trạch chiếm cứ Vũ An, khiến Trương Hoài Mân từng bước lui về Tây Bắc, bây giờ hình như đã đến Tân Dã. Trịnh Luân dẫn theo mấy vạn quân Thanh Châu du kích bên ngoài, cũng dữ tợn cắn cho Trương Hoài Mân vài phát. Từ khi Trương gia phát binh đến nay, Trương Hoài Mân đã chuyển hoàn toàn từ thế công sang thế thủ. Chỉ cần Hạ Trạch và Trịnh Luân tiếp cận sát hơn nữa, sợ là phải trở về sào huyệt Tĩnh Dương, Túc Thủy rồi”.

Con mắt Thần Niên sáng quắc, bên trong như có ý cười giảo hoạt: “Ồ? Nói như vậy Hạ Trạch và Trịnh Luân hẳn là chiếm được rất nhiều địa bàn từ tay Trương gia rồi”.

“Phải.” Thôi Tập gật đầu, “Hạ Trạch và Trịnh Luân tuy không phải là người một nhà, nhưng cả hai lại phối hợp ăn ý, giao chiến với Trương Hoài Mân đều thắng nhiều bại ít, hiện Tương Châu đã hoàn toàn nằm trong sự khống chế của Hạ Trạch, Trịnh Luân cũng đã chiếm được rất nhiều nơi ở Ung Châu cho Tiết Thịnh Anh”.

Thần Niên mỉm cười, lại hỏi: “Thực lực của Hạ Trạch và Tiết Thịnh Anh tăng mạnh, cậu bảo Tiết Thịnh Hiển sau lưng hai người, có phấn khởi vì hai nhà đó không?”.

Trương Hoài Mân dẫn quân tiến công là do Hạ Trạch và Tiết Thịnh Anh ở Thanh Châu chặn trước mặt, mặc dù chưa trải qua nỗi khổ loạn lạc, nhưng cũng không được nếm chút lợi ích nào. Thôi Tập suy xét một chút, nói: “E là không thể”.

“Chính xác, Tiết Thịnh Hiển không những sẽ không phấn khởi vì họ mà còn âm thầm buồn đau nữa kìa. Ngộ nhỡ hai kẻ đồng minh này sau khi chia cắt địa bàn của Trương gia lại cảm thấy chưa đã nghiền, tiếp tục trở lại đoạt Ký Châu, vậy thì phải làm thế nào mới được?” Thần Niên nhấc bút, nối liền Thanh Châu, Ký Châu và Nghi Bình lại, cười nói: “Cậu xem, ba nơi này vốn hình thành thế kiềng ba chân, hiện tại hai chân kia đều đã lớn mạnh rồi, cái chân còn lại làm sao có thể an ổn được”.

Thôi Tập nghe thế trong lòng chấn động: “Cô muốn liên yếu kháng mạnh? Liên hợp với Ký Châu lấy Nghi Bình?”.

Thần Niên cười nói: “Phải, mà cũng không phải”.

Nàng nói lập lờ nước đôi như vậy, tuy Thôi Tập thông minh song vẫn còn chút mơ hồ, còn đang nghi hoặc thì đã nghe Thần Niên giải thích: “Chỉ dựa vào chút nhân mã hiện giờ của chúng ta, Tiết Thịnh Hiển còn chẳng thèm nhìn chúng ta chứ đừng nói là muốn liên hợp với chúng ta, chuốc lấy cái danh thất tín lật lọng, nên y sẽ không làm đâu. Nhưng nếu chúng ta có thể đoạt được Nghi Bình, Hạ Trạch muốn tiến về phía Đông, chỉ có thể hoặc đoạt lại Nghi Bình trong tay chúng ta một lần nữa, hoặc thông qua sườn Phi Long. Mà đi qua sườn Phi Long, cũng sẽ không qua được Thanh Châu, phía Tiết Thịnh Anh cho dù là vì chính mình cũng sẽ không cho gã tấn công sau lưng mình đâu”.

Nói đến đây, Thôi Tập đã hiểu ý Thần Niên, không khỏi nói tiếp: “Bởi vậy, nếu chúng ta có thể chiếm được Nghi Bình, cũng coi như thay Tiết Thịnh Hiển trừ một mối họa trong lòng”.

“Đúng thế, cho nên, Tiết Thịnh Hiển dù không tiện liên hợp với chúng ta một cách rõ ràng, song cũng có thể âm thầm nuôi quân chúng ta, chỉ mong sao chúng ta phát triển về hướng Nam, thu Nam Thái Hành, cũng tiện đi tìm phiền phức ở Nghi Bình.”

Thôi Tập gật đầu, lại nghĩ ngợi rồi nói: “Chi bằng bảo người đi Ký Châu một chuyến”.

Thần Niên giương mắt nhìn cậu, trầm giọng nói: “Ta đi”.

Thôi Tập sững sờ, vô thức phản đối: “Không được”.

Thần Niên lại nở nụ cười, hỏi: “Vậy ai đi? Cậu đi hay Ôn Đại Nha đi? Hay là Chu Chấn? Cậu có thể tin hắn sao?”.

Nhân lực có thể dùng trong trại vốn không đủ, có thể tin thì năng lực có hạn, có năng lực thì lại không thể hoàn toàn tin tưởng. Thôi Tập bất giác cũng có phần buồn bã, trầm mặc thật lâu, cuối cùng vẫn lắc đầu, nói: “Bất kể ai đi, cũng không thể là cô đi”.

“Ta đi là thích hợp nhất. Ta là nữ tử, bọn chúng không tiện theo dõi, ngược lại càng dễ hành sự.” Thần Niên cuộn bản đồ trên bàn, đặt lại trên giá sách. Nàng tiến đến vỗ vai Thôi Tập, cười nói: “Không sao đâu, trong lòng ta có tính toán. Cậu giúp ta an bài, chọn hai người ổn thỏa, mấu chốt là không được để lộ tin tức”.

Thôi Tập gật đầu đồng ý, tiễn Thần Niên ra cửa.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.